Sỏi túi mật nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng như viêm túi mật cấp, viêm đường mật, viêm tụy cấp…
Theo BSCK2 Nguyễn Quang Huy, Trưởng khoa Ngoại tổng quát, Bệnh V Nhân dân 115, “khởi nguồn” của sỏi túi mật là dịch mật - hợp chất giúp cơ thể tiêu hóa chất béo và thuần hóa hàng loạt vitamin.
Dịch mật do gan tiết ra và được vận chuyển đến túi mật, cơ quan thực hiện vai trò bảo quản và làm cô đọng mật, có tạo dáng hình trái lê kéo dài.
Sự hiện diện chất béo trong thức ăn được tiêu hóa khởi động phản ứng hormone gây ra co thắt túi mật, tiếp theo mật được đổ vào ruột.
Sỏi túi mật những cục nhỏ xuất hiện từ mật đã kết tinh. Ở phương Tây, đa số sỏi túi mật là tập hợp chủ yếu từ cholesterol. Còn ở Việt Nam đa số là sỏi sắc tố, bắt nguồn từ trứng và xác ký sinh trùng đường ruột.
Cholesterol kết tinh ở dạng cục nhỏ khi túi mật tích trữ lượng dịch mật nhiều hơn khả năng hòa tan muối mật. Nguyên nhân tình trạng ứ trệ cũng có thể vì hoạt động bất thường của túi mật. Sỏi túi mật trở thành nguồn gốc tình trạng bệnh lý khi chúng làm tắc ống túi mật hay gây viêm túi mật.
Túi mật là một cơ quan dạng túi thuộc hệ thống dẫn mật có chức năng chứa đựng, cộ đặc và tống xuất dịch mật theo nhịp độ hoạt động của hệ tiêu hoá. Túi mật được nối thông với ống mật chủ bởi ống túi mật. Dịch mật được tiết ra từ gan theo hệ thống ống dẫn mật đi xuống ống mật chủ.
Ống mật chủ dẫn mật đổ xuống tá tràng (là đoạn đầu của ruột) nhưng không phải liên tục mà là từng đợt theo nhịp độ ăn uống. Trước khi đổ xuống tá tràng, dịch mật bị cơ vòng Oddi (cơ vòng ở lỗ đổ vào tá tràng) chặn lại nên được dẫn vào túi mật. Tại túi mật, dịch mật được túi mật hấp thu bớt nước nên trở nên cô đặc hơn tức là tăng chất lượng hơn.
Mỗi khi ăn, thức ăn vào đến tá tràng sẽ kích thích túi mật co bóp mạnh làm mở cơ vòng Oddi để tống một lượng mật cần thiết xuống tá tràng giúp tiêu hoá thức ăn.
Như vậy, nếu không có túi mật thì dịch mật vẫn có thể tiết ra bình thường từ gan và đổ xuống tá tràng nhưng đổ xuống liên tục chứ không theo nhịp độ ăn uống như là khi còn túi mật.
Theo bác sĩ Quang Huy sỏi túi mật hay gặp ở nữ giới là do hormone nữ giới. Estrogen gia tăng nồng độ cholesterol trong dịch mật, progesteron làm chậm tốc độ giải phóng túi mật. Điều này giải thích vì sao xác suất mắc bệnh của phụ nữ giảm dần cùng tuổi tác (so với xu hướng mắc bệnh của nam giới).
Trước 40 tuổi, tỷ lệ sỏi mật ở phụ nữ (nguy cơ mắc bệnh đặc biệt tăng khi có thai) được chẩn đoán cao gần gấp ba lần nam giới; sau tuổi 60 xác suất ngã bệnh ở phụ nữ tăng không đáng kể.
Liệu pháp hormone thay thế (estrogen) cũng làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh, đặc biệt trong trường hợp hormone được bổ sung cho cơ thể ở dạng uống thay vì gián tiếp qua băng dính (qua da). Viên ngừa thai cũng làm gia tăng nguy cơ xuất hiện sỏi túi mật, nhất là trong mười năm đầu sử dụng.
Nhân tố nguy cơ tiếp theo là tình trạng béo phì: những mô trong cơ thể chứa mỡ nhiều hơn cũng sản xuất nhiều estrogen hơn.
Nguy cơ bị sỏi túi mật cũng gia tăng trong trường hợp sụt cân đột ngột vì nỗ lực giảm béo. Bởi thực đơn nghèo năng lượng kìm hãm cơ chế sản xuất mật - yếu tố khiến cho quá trình kết tủa cholesterol diễn ra nhanh hơn.
Tình trạng xuất hiện sỏi túi mật sau những ca hút mỡ hoặc phẫu thuật làm nhỏ dạ dày nhằm hạn chế háu ăn xảy ra nhiều tới mức không hiếm bệnh nhân yêu cầu cắt bỏ túi mật ngay khi thực hiện kỹ thuật này.
Nguyên nhân tiếp theo tiếp tay cho sự xuất hiện của sỏi túi mật là tiểu đường hoặc những bệnh khác hạn chế chức năng của túi mật hoặc làm chậm nhu động ruột - trong đó thậm chí có cả tình trạng tổn thương tủy sống.
Đa số những người bị sỏi túi mật đã kết tủa không hề hay biết. Những cục sỏi “thầm lặng” không gây bất cứ triệu chứng gì và thường được tình cờ phát hiện trong những dịp thăm khám khác, với chẩn đoán bằng siêu âm ổ bụng.
Những triệu chứng đau dữ dội xuất hiện nhiều nhất khi sỏi làm tắc ống túi mật. Những cơn đau thường xảy ra trong trường hợp túi mật co thắt đột ngột (hay xảy ra sau bữa ăn nhiều thịt, giầu mỡ), do gia tăng sức ép của sỏi lên thành túi mật hoặc động tác co thắt túi mật làm chúng dịch chuyển, hệ quả làm tắc đường dẫn mật.
Trong các triệu chứng cơ bản có cơn đau thường xuất hiện ở giữa hoặc bên phải phần trên ổ bụng, ngay dưới đường xương sườn.
Tình trạng đau đớn gia tăng kéo dài khoảng 60 phút và có thể duy trì, mức độ giảm dần suốt vài tiếng tiếp theo.
Cảm giác đau có thể mạnh mẽ và dai dẳng (bệnh nhân thường liên tưởng đến nhát dao chọc ngoáy) hoặc nhức nhối và căng phồng.
Có những trường hợp cơn đau lan theo hướng sau lưng hoặc cánh tay phải. Không loại trừ kém theo tình trạng buồn nôn và nôn. Cơn đau thuyên giảm khi túi mật trở lại trạng thái bình thường.
Sỏi túi mật cũng có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng, như viêm túi mật cấp, viêm đường mật, viêm tụy cấp…
Hiện, phẫu thuật cắt túi mật nội soi được xem như là phương pháp duy nhất được chọn trong điều trị ngoại khoa sỏi túi mật.
Phương pháp này được chỉ định cho các trường hợp sỏi túi mật có triệu chứng hoặc biến chứng.
- Hàng ngày cần ăn ba bữa cân bằng
- Duy trì cân nặng không vượt quá chuẩn mực dành cho lứa tuổi
- Thường xuyên tập luyện thể thao (đi bộ) thời gian tối thiểu 30 phút đa số ngày trong tuần