Bệnh viện K đã áp dụng liệu pháp miễn dịch điều trị ung thư. Trên từng bệnh nhân cho thấy, tình trạng được cải thiện, khối u không còn bị di căn.
Tại cuộc họp báo ngày 8/10, PGS.TS Lê Đình Quảng, Phó Giám đốc Bệnh viện K cho hay, cách đây 4 năm, Bệnh viện K đã tham gia thử nghiệm đa lâm sàng quốc tế với 4 loại thuốc điều trị ung thư bằng phương pháp miễn dịch. Từ cuối năm 2017, Bệnh viện K chính thức điều trị cho 50 bệnh nhân bằng liệu pháp này.
Ở nước ta, Pembrolizumab là thuốc miễn dịch mới được cấp phép sử dụng trong thực hành lâm sàng điều trị ung thư từ cuối năm 2017 và đang được sử dụng ở một số bệnh viện.
Tuy nhiên, chi phí cho một chu kì điều trị lớn, khoảng 60- 120 triệu đồng và chưa được Bảo hiểm Y tế chi trả. Bệnh nhân sẽ phải truyền 3 tuần/lần và truyền liên tục trong vòng 3- 4 năm.
Thuốc ức chế kiểm soát miễn dịch điều trị ung thư được chỉ định điều trị cho các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, với các loại ung thư: hắc tố, phổi, dạ dày, u lympho, gan và đường niệu đạo.
Theo bác sĩ Đào Văn Tú, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, Phó trưởng Khoa Điều trị theo yêu cầu, Bệnh viện K, hiện chưa có kết quả đánh giá chung, nhưng trên từng bệnh nhân cho thấy, tình trạng được cải thiện, khối u không còn bị di căn.
Các thuốc Atezolizumab, Durvalumab, Tremelimumab đã được cấp phép trong nghiên cứu lâm sàng. Một số bệnh viện lớn ở Việt Nam phối hợp với các công ty dược phẩm và trung tâm nghiên cứu lớn trên thế giới đang tiến hành nghiên cứu các thuốc điều trị miễn dịch trên giai đoạn thử lâm sàng.
Mặc dù, triển vọng về hiệu quả của phương pháp điều trị là rất lớn, tuy nhiên không phải bệnh nhân ung thư nào nào cũng có chỉ định điều trị phương thức này. Cùng một loại ung thư nhưng không phải bệnh cảnh nào cũng có chỉ định mà tuỳ thuộc chủ yếu vào giai đoạn và đặc điểm khối u.
Thông thường thuốc được dùng cho giai đoạn di căn và mức độ biểu hiện của thụ thể PD-L1 trên khối u càng cao thì khả năng đạt đáp ứng với liệu pháp miễn dịch này càng cao. Hiện tại Bệnh viện K đã điều trị cho hàng chục bệnh nhân và cần thời gian theo dõi thêm đủ dài để tổng kết, đánh giá hiệu quả.
Cũng cần phải nói thêm đây không phải là phương thức chữa khỏi ung thư giai đoạn di căn mà chỉ tiêu diệt phần nào và ức chế, kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư qua đó giúp kéo dài thời gian sống và cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư.
Hơn nữa, trong điều trị ung thư, tuyệt đại đa số các trường hợp để điều trị hiệu quả cần phối hợp đa mô thức và toàn diện, không một phương thức đơn lẻ nào có thể mang lại thành công.
Các thuốc ức chế chốt kiểm đang được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới từ việc cố gắng mở rộng chỉ định điều trị đối với nhiều loại ung thư khác nhau, nhiều giai đoạn bệnh khác nhau từ giai đoạn khu trú tại chỗ đến giai đoạn di căn, từ sử dụng đơn độc đến kết hợp nhiều thuốc miễn dịch với nhau, hoặc kết hợp giữa điều trị miễn dịch với các phương pháp truyền thống như kết hợp với hóa trị, xạ trị.
Tuy nhiên, cần thêm thời gian để các nghiên cứu lâm sàng kết thúc và kết quả của các nghiên cứu được công bố.
Ý tưởng huy động hệ miễn dịch tấn công ung thư được đưa ra lần đầu tiên cách đây hơn hai thập kỷ. Năm 1990, giáo sư James P.Allison (Mỹ) đầu tiên phân lập thành công CTLA-4 một loại protein hoạt động như điểm kiểm soát trong hệ miễn dịch, tiếp đó ông và cộng sự đã tạo ra được một loại kháng thể đơn dòng ức chế CTLA-4 và chứng minh được tác dụng sinh học của phương pháp ưc chế điểm kiểm soát miễn dịch CTLA-4 trong điều trị ung thư.
Hai năm sau GS Tasuku Honjo (Nhật Bản) tìm ra điểm kiểm soát thứ hai PD-1. Hai nhà khoa học được trao Giải Nobel Y học 2018 nhờ các phát hiện này. Đây là cơ sở nghiên cứu, nền tảng để các công ty nghiên cứu, sản xuất ra nhiều loại thuốc là các kháng thể đơn dòng ức chế các thụ thể CTLA-4 hoặc thụ thể PD1/PD-L1.
Các kháng thể đơn dòng kháng ức chế CTLA-4 phổ biến là ipilimumab, tremelimumab, trong khi Các kháng thể đơn dòng ức chế PD-1/PD-L1 phổ biến là Pembrolizumab, Nivolumab, Atezolizumab và Durvalumab.
Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt thuốc ức chế các điểm kiểm soát miễn dịch đầu tiên điều trị ung thư hắc tố giai đoạn muộn vào năm 2011, trước đó tuổi thọ của bệnh nhân mắc bệnh này giai đoạn muộn thường được đo lường bằng tháng, tuy nhiên, liệu pháp miễn dịch mới đã giúp kéo dài thời gian sống thêm theo năm.
Chỉ 3 tháng sau FDA đã mở rộng chỉ định cho ung thư phổi giai đoạn muộn. Tính đến nay, các thuốc ưc chế chốt kiểm miễn dịch Nivolumab, Ipilimumab, Pembrolizumab, Atezolimumab, Durvalumab đã được FDA phê duyệt trong điều trị một số bệnh ung thư như ung thư hắc tố, ung thư phổi, ung thư biểu mô đường niệu, ung thư dạ dày, u lympho, ung thư gan.
Mỗi thuốc có chỉ định không hoàn toàn giống nhau về loại ung thư và giai đoạn bệnh có thể điều trị.
Tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, gánh nặng ung thư ngày càng trở nên nghiêm trọng, đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội.
Theo ghi nhận ung thư năm 2018, mỗi năm ở nước ta có khoảng 164.671 ca mới mắc, tỷ lệ mới mắc/100.000 dân là 151,4 đứng thứ 87/186 quốc gia có báo cáo số liệu ung thư; và 114.871 ca tử vong do ung thư, tỷ lệ tử vong/100.000 dân là 104,4 đứng thứ 130/186 quốc gia có báo cáo số liệu ung thư.
Phần lớn người bị bệnh ung thư đến khám và điều trị ở giai đoạn muộn nên việc điều trị càng khó khăn và tốn kém. Các phương pháp điều trị ung thư phổ biến bao gồm: phẫu thuật, hoá trị, xạ trị và chăm sóc giảm nhẹ.
Trong lĩnh vực điều trị ung thư, liệu pháp miễn dịch là thành tựu nổi bật nhất trong vài năm qua. Khái niệm điều trị miễn dịch rất đơn giản là dùng thuốc kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể để tấn công ung thư. Phương thức điều trị miễn dịch này đã được áp dụng tại viện K và một số cơ sở chuyên khoa ung thư trên cả nước trong những năm gần đây.