Béo phì là thủ phạm gây hơn 200 bệnh khác nhau như bệnh tim mạch, đột quị, đái tháo đường, thoái hóa khớp, gan nhiễm mỡ, ung thư… Vậy làm thế nào để kiểm soát cân nặng, điều trị béo phì hiệu quả?
Theo hướng dẫn về chẩn đoán béo phì của Bộ Y tế, béo phì là tình trạng tích tụ mỡ thừa hoặc bất thường, có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
Ở nhiều nước trên thế giới, tình trạng béo phì ngày càng gia tăng, đặc biệt trong 10 năm trở lại đây. Bệnh béo phì có sự thay đổi theo giới, tuổi, tình trạng kinh tế, xã hội, yếu tố chủng tộc.
Nghiên cứu được công bố vào năm 2018 về bệnh không lây nhiễm, ăn uống và dinh dưỡng ở Việt Nam cho thấy tần suất thừa cân, béo phì trên người lớn ở Việt Nam là 15%, tỷ lệ ở thành thị gấp gần 2 lần so với nông thôn (22,1% so với 11,2%).
Ngoài ra, nghiên cứu cũng ghi nhận lối sống của người Việt Nam thay đổi rất nhiều trong những năm gần đây như ít vận động hơn, trong chế độ ăn có nhiều muối, ăn nhiều mì ăn liền, uống nhiều nước ngọt, ăn ít rau và hải sản.
Một thống kê tại Việt Nam 2021 cho kết quả tương tự với tỷ lệ thừa cân, béo phì ở Hà Nội và TP.HCM chiếm 18% tổng số lượng người thừa cân, béo phì trên toàn quốc.
Một điều đáng lưu ý là tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em tuổi học đường 5 - 19 tuổi tăng từ 8,5% năm 2010 lên thành 19,0% năm 2020, trong đó tỷ lệ thừa cân béo phì khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.
Béo phì có tác động bất lợi lên tất cả các vấn đề sức khỏe, là thủ phạm gây hơn 200 bệnh khác nhau, như bệnh tim mạch, đột quị, đái tháo đường, thoái hóa khớp, gan nhiễm mỡ và nhiều bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư đường tiêu hóa…
Những biện pháp ngăn ngừa, điều trị thừa cân, béo phì và duy trì thực hiện việc kiểm soát cân nặng lâu dài có thể cải thiện tình trạng sức khỏe, giảm biến chứng cho người bệnh.
Theo Bộ Y tế, nguyên nhân dẫn đến béo phì là do tăng quá mức lượng năng lượng ăn vào; ăn một lượng thức ăn nhiều hơn nhu cầu của cơ thể; chế độ ăn giàu chất béo.
Trẻ em tiêu thụ quá nhiều chất ngọt làm tăng nguy cơ béo phì hoặc nuôi con bằng sữa mẹ ít hơn 3 tháng thường đi kèm với tăng nguy cơ béo phì ở trẻ em khi đến trường.
Bên cạnh đó còn có nguyên nhân do di truyền, hay do nội tiết như bệnh lý ác tính, viêm nhiễm, hội chứng béo phì, suy giáp, nguyên nhân mô bệnh học, nguyên nhân do dùng thuốc...
Ngoài ra, béo phì còn do lối sống tĩnh tại, lười hoạt động thể lực; Hút thuốc khi mang thai (con cái của các bà mẹ hút thuốc khi mang thai có nguy cơ gia tăng trọng lượng đáng kể về sau này)... Bệnh nhân béo phì có thể do có nhiều nguyên nhân phối hợp.
Bộ Y tế cũng đưa ra 3 cách chẩn đoán béo phì, đó là chỉ số khối cơ thể (BMI - Body mass index); vòng bụng (khi vòng bụng ≥ 90 cm ở nam và ≥80 cm ở nữ); phương pháp DEXA hấp thụ năng lượng kép.
Bộ Y tế cũng khuyến cáo, để giảm cân mang lại lợi ích cho sức khỏe, có thể giảm cân 5 - 15% trong khoảng thời gian 6 tháng. Đối với những người có mức độ béo phì cao hơn (BMI ≥ 35 kg/m2) có thể cân nhắc giảm cân nhiều hơn (20% trở lên).
Việc quản lý và điều trị béo phì không chỉ là giảm cân đơn thuần mà còn cần giảm nguy cơ các biến chứng và cải thiện sức khỏe.
Những điều này có thể đạt được bằng cách giảm cân vừa phải, cải thiện hàm lượng dinh dưỡng trong chế độ ăn uống, vận động và tập thể dục mức độ trung bình. Điều trị tốt béo phì có thể làm giảm nhu cầu điều trị bệnh đồng mắc. Trong đó:
- Can thiệp lối sống là nền tảng đảm bảo duy trì giảm cân bền vững, an toàn bao gồm các biện pháp can thiệp dinh dưỡng, tập luyện thể lực, thay đổi hành vi, hỗ trợ tâm lý.
- Điều trị bằng thuốc khi can thiệp lối sống trong 3 tháng không giúp giảm được 5% cân nặng, người bệnh có BMI ≥ 25 kg/m2.
- Phối hợp chặt chẽ của nhiều chuyên khoa để đạt được hiệu quả điều trị và duy trì giảm cân đạt yêu cầu bền vững.
- Trong 30 phút tập thể dục có thể tiêu thụ 260kcalo bằng cách chạy bộ, nhảy dây tiêu thụ 264kcalo
Tại hướng dẫn này, Bộ Y tế cũng khuyến cáo các phương pháp điều trị béo phì như: Về chế độ ăn cần cân đối giữa các chất sinh nhiệt, không quá nhiều glucid, tỷ lệ thay đổi tùy cá thể theo bệnh lý mắc kèm, thói quen ăn uống; Cung cấp đầy đủ các vitamin cần thiết: vitamin tan trong dầu, kali, sắt, acid amin…