Nhiều rối loạn tâm thần của trẻ mắc phải do dịch COVID-19 được chẩn đoán bao gồm: trẻ chậm nói, rối loạn tăng động giảm chú ý, lo âu… Vậy cha mẹ phải làm gì để cải thiện sức khỏe tâm thần cho con?
Bé Cường 2 tuổi ở Hà Nội hoãn đi lớp mầm non do dịch COVID-19 đang kéo dài, đến nay mới chỉ nói được vài từ " ạ, mẹ, bà", hỏi không trả lời mà chỉ nói khi thích.
Một trường hợp khác là bé Ngọc ở Hưng Yên, trước 30/4, bé đi học trường mầm non gần nhà. Khi đó, bé được 20 tháng, nhanh nhẹn và nói được các từ đơn.
Sau một thời gian trường học đóng cửa do nghỉ dịch, hiện bé đã 28 tháng nhưng không nói thêm được từ nào. Người mẹ cho biết ở nhà, ông bà thường bật tivi cho bé xem, cứ bật ti vi bé mới ngồi yên.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra, trẻ có khả năng học tới 2100 từ trong vòng 1 phút. Tuy nhiên, một điều nghịch lý là ngày càng nhiều trẻ em có biểu hiện chậm nói.
Theo dữ liệu mới nhất từ UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc), cứ 7 em thì có ít nhất 1 em trong tổng số trẻ em trên toàn cầu bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các đợt phong tỏa. Hơn 1,6 tỷ trẻ em phải hứng chịu những thiệt hại nhất định về giáo dục do ảnh hưởng trực tiếp bởi các đợt phong tỏa do dịch COVID-19.
Những rối loạn tâm thần của trẻ mắc phải do dịch được chẩn đoán bao gồm: trẻ chậm nói, rối loạn tăng động giảm chú ý, lo âu, tự kỷ, rối loạn lưỡng cực, rối loạn cư xử, trầm cảm, rối loạn ăn uống, khuyết tật trí tuệ và tâm thần phân liệt.
Tại Việt Nam, dịch COVID-19 khiến một số địa phương phải đóng cửa các trường mầm non nhiều tháng qua. Trẻ phải giãn cách ở nhà không được đến trường, tiếp xúc với thiết bị điện tử như Ipad, điện thoại, tivi nhiều hơn.
Chuyên gia tâm lý giáo dục Nguyễn Văn Hòa – Giám đốc một Trung tâm nghiên cứu Ứng dụng tâm lý giáo dục cho biết, tại trung tâm, mỗi ngày tiếp nhận khoảng 70 trường hợp tới khám và tư vấn qua điện thoại về rối loạn sức khỏe tâm thần thì có 90% trẻ có biểu hiện chậm nói. Số phụ huynh gọi điện tới Trung tâm tư vấn có con chậm nói rơi vào độ tuổi trung bình từ 18 tháng – 32 tháng.
Trẻ bị chậm nói có biểu hiện: nói không rõ lời, diễn đạt khó khăn, nói nhại lời hoặc nói lắp, nói ngược, nói ngọng. Mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ bị chậm so với cột mốc phát triển. Trẻ tới 2, 3 tuổi mà vẫn chỉ nói được 1 hoặc 2 từ đơn.
Theo chuyên gia tâm lý giáo dục Nguyễn Văn Hòa, khi khả năng ngôn ngữ chậm dẫn tới một số kĩ năng khác cũng bị hạn chế theo (thu mình, không muốn tiếp xúc với thế giới xung quanh, nhút nhát, không tự tin) và có thể ảnh hưởng chỉ số IQ, chỉ số cảm xúc. Tình trạng này kéo dài sẽ khiến trẻ phải đối mặt với nguy cơ tăng động, giảm chú ý, tư duy logic ngôn ngữ của trẻ bị hạn chế, thậm chí tự kỷ.
Để giải quyết tình trạng chậm nói của trẻ, các chuyên gia đã đưa ra giải pháp “kiềng 3 chân” gồm sinh hoạt điều độ, tăng tương tác, dinh dưỡng.
Theo chuyên gia tâm lý giáo dục Nguyễn Văn Hòa, ngay từ 4 - 6 tháng bố mẹ đã cần theo sát sự phát triển ngôn ngữ của con bởi trẻ bắt đầu ê a, thậm chí có những trẻ ở giai đoạn này nói được những từ như “bà, mẹ, ti…”. Tuy nhiên đây là âm ngữ chứ không phải ngôn ngữ, trẻ không nói lại được khi có yêu cầu. Nếu thấy con chậm hơn các bạn đồng trang lứa, gia đình nên có các biện pháp để giúp đỡ con như điều chỉnh cách tương tác với bé.
Cha mẹ cần phát hiện con chậm nói trong khoảng từ 15 – 32 tháng và đưa con tiến hành các biện pháp can thiệp phù hợp. Nếu trẻ chậm nói, trước tiên, cần đưa trẻ đi khám sàng lọc cơ quan tiếp nhận, xử lý thông tin và sản sinh lời nói (tai, mũi, hầu, họng, thanh quản, lưỡi) rồi sau đó kiểm tra về tâm lý của trẻ.
Điều quan trọng là cha mẹ cần tăng tương tác với trẻ. Thực tế 3 năm đầu đời đứa trẻ đã đạt trên 50% những kĩ năng nền móng căn bản của cuộc đời.
Cha mẹ nên tạo điều kiện để trẻ tương tác. Ở nhà bố mẹ thường đoán trước và đáp ứng hết những yêu cầu của trẻ mà không để cho trẻ có cơ hội đòi hỏi yêu cầu của mình qua lời nói. Đồng thời thay đổi những thói quen sinh hoạt xấu như xem ti vi quá nhiều, ăn ngủ không theo thời gian nhất định, ít tiếp xúc với môi trường bên ngoài…
Cùng với đó, cha mẹ cần chú ý chế độ dinh dưỡng cho trẻ. Phụ huynh không nên cho trẻ ăn nhiều thực phẩm chế biến sẵn, bữa ăn của trẻ đảm bảo cân đối các thành phần dinh dưỡng, bổ sung các thực phẩm giúp cho não bộ phát triển.
PGS.TS Trần Đình Toán - Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Lâm sàng, Uỷ viên Hội đồng Dinh dưỡng và Thuốc, Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương cho biết: dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển não bộ của trẻ nói chung và với bé chậm nói nói riêng, đặc biệt trong giai đoạn 0 – 5 năm đầu đời, bởi việc sản xuất ra tiếng nói cũng phản ánh sự phát triển và tương tác giữa não bộ với cơ quan đích.
Từ 0 – 2 tuổi, thậm chí lúc trong bào thai, trọng lượng não trẻ có thể đạt tới 80% trọng lượng não trưởng thành. Lúc 2 – 5 tuổi, trọng lượng của não tăng thêm 10%, tức khoảng 90% não người trưởng thành.
Từ lúc 5 tuổi đến lúc trưởng thành, não chỉ phát triển thêm 10% trọng lượng. Để đạt được trượng lượng não của người trưởng thành cần khoảng 1200 – 1400gr. Khi về già có tuổi não sẽ teo dần, chỉ còn lại 900 – 1000gr.
PGS.TS Trần Đình Toán cho hay, Omega có vai trò rất quan trọng với sự phát triển não bộ của trẻ, nhất là đối với trẻ chậm nói, tăng động giảm chú ý. Omega là dưỡng chất thiếu yếu mà cơ thể không tự tổng hợp được mà phải bổ sung từ bên ngoài qua thực phẩm.
Hiện nay omega có 2 nguồn là omega động vật và omega thực vật. Omega động vật chủ yếu sử dụng các axit béo chưa no có nguồn gốc động vật từ cá, mỡ của cá, cá biển… Omega thực vật chủ yếu lấy từ các dầu thực vật, chủ yếu là hạt có dầu. Một số hạt có hàm lượng dầu rất cao và omega là dầu lanh, hạt chia, hạt óc chó…
Ngày nay xu hướng sử dụng Omega thực vật ngày càng nhiều hơn bởi nguồn nguyên liệu Omega thực vật có thể kiểm soát được chất lượng, kiểm soát được quá trình từ gieo trồng đến thu hái, đảm bảo không nhiễm kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, không ô nhiễm đất, nước, không khí. Đồng thời, Omega thực vật lại không có vị tanh, không gây kích ứng như nôn, ói nên rất an toàn, dễ dung nạp, ngay từ khi sơ sinh, trẻ có thể sử dụng được.
“Omega thực vật có chứa ALA mà ở động vật không có. Khi vào cơ thể ALA sẽ chuyển hóa thành DHA và EPA theo nhu cầu, giúp cung cấp năng lượng và là nguyên liệu xây dựng cấu trúc não bộ ở trẻ, giúp tăng cường trí nhớ, tăng cường phản xạ thần kinh, giúp trẻ nhanh nhạy hơn, tăng khả năng bắt chước, học hỏi các từ nhanh hơn. Ngoài ra còn giúp phát triển thị giác và tăng đề kháng cho bé.” – PGS Trần Đình Toán nhấn mạnh.
Theo PGS.TS Trần Đình Toán, dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ khỏe mạnh cả thể chất và trí tuệ luôn cần phải trú trọng và quan tâm.
Một số mốc phát triển ngôn ngữ của trẻ:
- 4 tháng: Đôi lúc trẻ phát ra được âm "A, Ba, Bà", nhưng khi người lớn yêu cầu nói lại thì chưa làm được.
- 8 tháng: Trẻ biết chơi phun mưa, chu môi làm xấu, đàn môi.
- 12 tháng: Trẻ bắt đầu có ngôn ngữ câu một từ "bà, ba, bi, ơi, đi, măm". Ở 15 tháng tuổi, bé nói được phần lớn câu một từ khi được yêu cầu, biết giả vờ gọi điện thoại nói xì xồ. Đồng thời, biết giả vờ uống nước, giả vờ ho, hắt xì, làm tiếng các con động vật kêu. Nhiều trẻ đã có thể nói được câu 2 từ ở 16-18 tháng.
- 20 tháng: Trẻ biết nói câu 3 từ, gọi tên phần lớn các đối tượng quen thuộc.
- 26 tháng: Phần nhiều biết gọi tên màu sắc, khối hình, biết hỏi câu hỏi ở đâu. Biết hát một số bài hát, có thể đọc một số bài thơ
- 32 tháng: Trẻ biết sử dụng câu phủ định, kết hợp danh từ với nhiều tính từ và động từ, hỏi được câu hỏi khi nào, hát biểu diễn
- 40 tháng: Trẻ biết chơi đóng vai, tự ra điều kiện trò chơi, tự tổ chức trò chơi, hỏi rất nhiều loại câu hỏi khác nhau.