Việc phẫu thuật lấy sỏi mật gây đau, khả năng phục hồi chậm, nhiều biến chứng … nên nhiều người bị sỏi mật tỏ ra sợ hãi, đi tìm kiếm những biện pháp không cần mổ, để rồi tiền mất tật mang với những bài thuốc phản khoa học.
Theo ThS.BS Nguyễn Thái Bình, Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, hiện nay phương pháp phẫu thuật lấy sỏi được các bác sĩ chỉ định khi bệnh nhân có nhiều sỏi, sỏi đúc khuôn khu trú một phần của gan, sỏi túi mật...
Do phương pháp này yêu cầu phải gây mê nên ít áp dụng cho các bệnh nhân thể trạng kém, già yếu, đang trong tình trạng sốc..., một số trường hợp phẫu thuật nhiều lần có thể gây dính, xơ hẹp đường mật trong gan.
Với những trường hợp bệnh nhân ít sỏi mật, sức khỏe yếu có thể không cần phẫu thuật mà vẫn được điều trị sỏi mật hiệu quả. Đó là tán sỏi ngược dòng qua nội soi và tán sỏi mật qua da. Phương pháp tán sỏi ngược dòng qua nội soi được chỉ định với các trường hợp có sỏi đoạn thấp ống mật chủ, sỏi nhỏ và ít. Các bác sĩ nội soi sẽ thực hiện cắt cơ thắt Oddi ở đoạn cuối của ống mật chủ, sau đó đưa dụng cụ lên đường mật để lấy sỏi. Tuy nhiên phương pháp này không áp dụng được với các trường hợp đã phẫu thuật nối mật ruột.
Còn phương pháp tán sỏi mật qua da được chỉ định cho các trường hợp có sỏi ống mật chủ, sỏi trong gan, sỏi tái phát, sỏi mật ở các bệnh nhân đã phẫu thuật nối mật ruột, có hẹp đường mật kèm theo, bệnh nhân già yếu, có bệnh lý toàn thân nặng, đang trong tình trạng sốc…
Bác sĩ Bình cũng cho biết thêm, tán sỏi mật qua da là phương pháp điều trị ít xâm phạm, an toàn, thời gian hồi phục nhanh do không cần phẫu thuật và gây mê. Đặc biệt, phương pháp này được áp dụng điều trị cho những trường hợp sỏi rải rác trong gan, khó áp dụng điều trị bằng các phương pháp khác.
Trong thời gian nằm viện, bệnh nhân sinh hoạt gần như bình thường nên chăm sóc khá đơn giản. Sau 7 ngày, bệnh nhân ra viện.
Cách đây không lâu, các bác sĩ của Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã điều trị cho bệnh nhân Nguyễn Văn X 24 tuổi, vào viện vì đau bụng và sốt. Các bác sĩ cho làm thăm dò siêu âm, xét nghiệm máu và chụp cộng hưởng từ. Kết quả, bệnh nhân có sỏi ống mật chủ và được chỉ định tán sỏi qua da. Sau khi tán sỏi, bệnh nhân được theo dõi 3 ngày và xuất viện trong tình trạng khoẻ mạnh hoàn toàn.
Ưu điểm của phương pháp này, các sỏi đường mật trong và ngoài gan có thể lấy được khá triệt để vì dưới hướng dẫn của máy chụp mạch số hoá xoá nền, cây đường mật hiện hình toàn bộ khi bơm thuốc cản quang, giúp định hướng đưa dụng cụ đến vị trí sỏi để can thiệp.
Do sỏi mật khá mềm nên với các sỏi lớn có thể cắt nhỏ bằng rọ lấy sỏi, sau đó lấy qua cổng hoặc đẩy xuống tá tràng. Tỷ lệ gặp các sỏi cứng không cắt nhỏ được là khá hiếm, những trường hợp đó cần sử dụng laser hỗ trợ.
“Phương pháp sử dụng bóng nong cơ thắt Oddi hoặc vị trí đường mật bị hẹp được áp dụng với tỷ lệ thành công cao. Trong các bệnh nhân của chúng tôi, hầu hết các trường hợp đoạn thấp ống mật chủ hoặc miệng nối mật ruột bị hẹp khá nặng.
Với các bệnh nhân đang trong tình trạng nhiễm khuẩn đường mật, việc đặt sonde dẫn lưu sẽ giải quyết tắc mật tạm thời rất hữu hiệu và có tính xâm lấn tối thiểu, nhằm giúp bệnh nhân tránh nguy cơ sốc nhiễm trùng đường mật - một biến chứng rất nguy hiểm của sỏi mật.
Phương pháp này ít biến chứng, bệnh nhân tránh được một cuộc phẫu thuật và gây mê, nên thời gian nằm viện sẽ ngắn hơn, giảm được chi phí. Đặc biệt phương pháp này có thể được chỉ định với các trường hợp thất bại sau phẫu thuật hoặc nội soi lấy sỏi.
Có thể tiến hành can thiệp đối với các bệnh nhân già yếu, có bệnh lý toàn thân phối hợp hoặc các bệnh nhân đã có tiền sử phẫu thuật đường mật (gây dính, khó khăn khi mổ lại) hoặc không can thiệp nội soi được.
Các biến chứng có thể xảy ra sau can thiệp hầu hết là nhẹ, có thể theo dõi, điều trị nội khoa. Một số trường hợp rò mật gây viêm phúc mạc hoặc áp xe lớn không thể dẫn lưu phải chỉ định phẫu thuật. Tỷ lệ gặp tử vong sau can thiệp sỏi mật là rất hiếm, chỉ gặp ở người có bệnh lý phức tạp” – BS Nguyễn Thái Bình cho hay.
Những dấu hiệu cảnh báo bệnh sỏi mật:
- Đau tức vùng dưới sườn phải
- Vàng da
- Chán ăn
- Ngứa
- Sốt
- Tiểu vàng đặc
- Phân bạc màu