Bệnh nhân ung thư gan ở nước ta thường phát hiện ở giai đoạn muộn. Vì thế, nhiều trường hợp bệnh nhân có đủ điều kiện kinh tế cho ghép gan thì cũng không thể tiến hành phương pháp này.
Theo các chuyên gia tiêu hóa, gan mật, với tỷ lệ những ca ghép gan thành công cao như hiện nay thì việc nghĩ đến ghép gan của bệnh nhân bị ung thư là điều có thể.
Thế nhưng, để được ghép gan thì bệnh nhân ung thư gan cần phải được phát hiện sớm, nằm trong tiêu chuẩn Milan. Tức là bệnh nhân có 1 khối u gan dưới 5cm hoặc không quá 3 khối u gan nhỏ hơn 3cm, chưa xâm lấn tại chỗ và hệ thống tĩnh mạch gan, chưa có di căn xa. Đây được gọi là ung thư gan giai đoạn sớm, khi ghép gan sẽ mang lại cơ hội sống thêm 5 năm với tỷ lệ ước tính khoảng 70 - 80%.
Vì vậy, phát hiện sớm bệnh là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để thành công trong ghép gan. Đối với ung thư gan thứ phát, tổ chức ung thư từ cơ quan khác di căn đến gan thì không chỉ định điều trị ghép gan.
Tuy nhiên, bệnh nhân ung thư gan sẽ phải được thăm khám kỹ lưỡng, hoàn thiện các xét nghiệm cận lâm sàng chuyên khoa, chỉ định điều trị ghép gan thông qua tiểu ban ung thư hội chẩn phục vụ ghép gan và chỉ khoảng 10% số bệnh nhân ung thư gan tại thời điểm phát hiện bệnh có thể tham gia phương pháp điều trị này.
Bên cạnh đó, một điểm đáng chú ý là, ung thư gan tại Việt Nam thường phát hiện ở giai đoạn muộn, không thể chỉ định điều trị triệt căn hay ghép gan. Do đó nhiều trường hợp bệnh nhân có đủ điều kiện kinh tế cho ghép gan thì cũng không thể tiến hành được.
Cũng như tất cả các phương pháp ghép tạng khác, sau khi ghép gan điều trị ung thư gan, bệnh nhân phải dùng thuốc điều trị và ngăn ngừa thải ghép. Tất cả các thuốc chống thải ghép đều mang lại tác dụng phụ riêng. Trong đó, nhóm corticoid gây tác dụng phụ lớn nhất: Giữ nước, làm tăng nguy cơ bệnh đái tháo đường, loãng xương, tăng huyết áp… Một số thuốc gây nhức đầu, run cơ, tiêu chảy, căng thẳng thần kinh, nôn ói, tăng kali và đường trong máu, rối loạn chức năng thận. Các thuốc chống thải ghép ức chế hệ miễn dịch nên bệnh nhân có thể bị các nhiễm khuẩn khác.
một số bệnh nhân phải đối diện với biến chứng nhiễm trùng - nguy cơ tử vong cho bệnh nhân. Vậy nên người bệnh cần phải được theo dõi kỹ trong suốt cuộc đời về việc thải ghép của gan. Ghép gan trong ung thư cũng khác với ghép gan không ung thư (với người bị xơ gan). Bởi ghép gan do xơ gan, sau khi ghép bệnh nhân chỉ cần được theo dõi và dùng thuốc. Còn ghép gan do ung thư ngoài theo dõi chặt chẽ còn phải tầm soát ung thư và vẫn có nguy cơ bị ung thư tái phát.
Hầu hết bệnh nhân có thể trở về cuộc sống bình thường hoặc gần bình thường sau ghép gan. Họ có thể tham gia hoạt động thể lực từ 6 - 12 tháng sau ca ghép thành công. Tuy nhiên, như trên đã đề cập đến vấn đề theo dõi sau ghép gan đến suốt đời. Cụ thể là: Khám định kỳ tại trung tâm ghép gan. Xét nghiệm máu theo dõi định lượng thuốc thải ghép và chức năng gan thận theo hướng dẫn của bác sĩ.
Bệnh nhân sau ghép gan do phải dùng thuốc, nên hệ thống miễn dịch bị ức chế, do đó cần tránh với các nguy cơ gây nhiễm trùng. Khi xuất hiện dấu hiệu bị bệnh, cần báo ngay bác sĩ và dùng thuốc dưới sự chỉ dẫn của bác sĩ.
Đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, sau ghép gan vẫn có thể thụ thai và sinh con, nhưng phải được theo dõi chặt chẽ vì dễ bị sinh non. Ngoài ra, do phải dùng thuốc ức chế miễn dịch, nên không được nuôi con bằng sữa mẹ.
Cần chú ý đến chế độ ăn uống điều độ và phải tuân theo hướng dẫn của bác sĩ và tầm soát ung thư tái phát.