Một loại hình nhân viên đang rất cần nhưng rất thiếu tại các bệnh viện

Hiện nay hầu hết các bệnh viện ở Việt Nam đều thiếu loại hình nhân viên chuyên trách này.

Nhu cầu về một loại hình nhân viên y tế, vừa hiểu biết về y tế, nhất là các hoạt động chăm sóc sức khoẻ của bệnh viện, vừa thành thạo về công nghệ thông tin đang tăng nhanh không chỉ ở các nước phát triển mà ngay cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, hiện nay hầu hết các bệnh viện đều thiếu loại hình nhân viên chuyên trách này.

Tin học y sinh học và sức khoẻ là gì?

Đó là chính là các chuyên viên về “tin học y sinh học và sức khoẻ” (thuật ngữ tiếng Anh là biomedical and health informatics), hoặc gọi tắt là “tin học y tế” (medical informatics).

Hiện nay, một số trường đại học và cao đẳng trong nước có đào tạo chuyên ngành y sinh học, nhưng chưa thấy đào tạo chuyên ngành tin học y sinh học và sức khoẻ. 

Một trong những thách thức khi muốn triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực y tế, nhất là tại các bệnh viện, là cần có lực lượng lao động lành nghề như chuyên viên tin học y tế, là những người hiểu biết về công nghệ chăm sóc sức khỏe, ngoài tính chuyên nghiệp về công nghệ thông tin và truyền thông.

Bên cạnh khó khăn về hạ tầng công nghệ thông tin vốn chưa đáp ứng cho sự phát triển của bệnh viện, một khó khăn không nhỏ khác mà nhiều bệnh viện gặp phải đó là thiếu các chuyên viên chuyên ngành tin học y tế, buộc các bệnh viện phải tuyển dụng chuyên viên tin học và phải mất thời gian khá dài mới có kiến thức về y tế qua tự học, một số rất ít là nhân viên y tế (bác sĩ) vì đam mê công nghệ thông tin đã học và chuyển đổi công tác sang lĩnh vực tin học.

Câu hỏi đầu tiên là liệu tin học y tế có phải là một môn khoa học hay không ? Tại hội nghị của Hiệp hội tin học y tế quốc tế (International Medical Informatics Association - IMIA) tổ chức ở Heidelberg, các chuyên gia đều thống nhất rằng tin học y tế là một môn học riêng biệt với phương pháp riêng của mình.

Tại một số khoa y của các trường đại học trên thế giới, các đơn vị học thuật của tin học y tế đã được hình thành. Các đơn vị này đã thực hiện các dự án nghiên cứu và bắt đầu các chương trình đào tạo về tin học y tế hoặc khoa học thông tin y tế.

Thuật ngữ tin học y tế có nguồn gốc từ Châu Âu, được sử dụng để phân biệt với các ngành học về khoa học máy tính. Sau đó, các thuật ngữ tin học y tế và tin học y sinh được sử dụng.

Năm 1974, lần đầu tiên, đào tạo chuyên ngành tin học y tế đã được thảo luận tại một cuộc họp ở Lyon (Pháp). Tại Anh, Mỹ cũng đã có các chương trình đào tạo chuyên ngành này vào những năm trước đó.

Ở Liên Xô thời kỳ những năm 50 của thế kỷ XX, tin học y tế như một môn học (còn được gọi là y học mạng) và khoa tin học y tế đầu tiên được thành lập tại Leningrad vào năm 1961. 

Tại Bỉ, đã giới thiệu một khóa học cho sinh viên y khoa trong đó xử lý thông tin y tế bằng phương pháp tin học để tạo điều kiện cho việc ra quyết định.

Tại Hà Lan, khoa Tin học y tế được thành lập vào năm 1973 tại Đại học Free, Amsterdam, và một chương trình 4 năm chuyên về tin học y tế được thực hiện bởi Đại học Amsterdam vào đầu những năm 1990.

Ở Đức, vào đầu năm 1972, đã ra mắt chương trình đào tạo tin học y tế với sự phối hợp của Đại học Heidelberg và Trường Công nghệ ở Heilbronn. 

Tin học y sinh học và sức khoẻ thực hiện những nhiệm vụ gì?

Tin học y tế học áp dụng các nguyên tắc của khoa học máy tính và thông tin vào sự tiến bộ của khoa học nghiên cứu về đời sống, giáo dục nghề nghiệp thuộc lĩnh vực y tế, y tế công cộng và chăm sóc bệnh nhân.

Tin học y tế là lĩnh vực đa ngành và tích hợp tập trung vào các công nghệ thông tin trong y tế, liên quan đến máy tính, nhận thức và khoa học xã hội.

Tin học y tế đã phát triển các lĩnh vực chú trọng và cách tiếp cận riêng biệt, khác biệt với các ngành nghề và ngành học khác, là lĩnh vực khoa học liên ngành, nghiên cứu và theo đuổi việc sử dụng hiệu quả dữ liệu y sinh, thông tin và kiến thức cho khoa học điều tra, giải quyết vấn đề và ra quyết định, được thúc đẩy bởi những nỗ lực cải thiện sức khỏe con người. 

Các chức năng chính của chuyên viên tin học y sinh học và sức khoẻ bao gồm:

Phát triển, nghiên cứu và áp dụng các lý thuyết, phương pháp và quy trình để tạo, lưu trữ, truy xuất, sử dụng và chia sẻ dữ liệu y sinh, thông tin và kiến thức. 

Xây dựng các ứng dụng thuộc lĩnh vực y sinh học trên công nghệ máy tính, công nghệ truyền thông và khoa học thông tin.

Điều tra và hỗ trợ lý luận, mô hình hóa, mô phỏng, thử nghiệm và dịch thuật trên toàn phổ từ phân tử đến quần thể, xử lý nhiều hệ thống sinh học, kết nối nghiên cứu và thực hành cơ bản và lâm sàng, và dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Dựa trên khoa học xã hội và hành vi để thiết kế và đánh giá các giải pháp kỹ thuật và sự phát triển của các hệ thống kinh tế, đạo đức, xã hội, giáo dục và tổ chức phức tạp.

Vai trò ngày càng tăng của các chuyên viên công nghệ thông tin y tế đã tạo ra nhu cầu mở rộng và đào tạo chuyên sâu đội ngũ chuyên viên có khả năng giúp các tổ chức giải quyết hiệu quả đầu tư vào công nghệ thông tin và do đó, nâng cao triển vọng cải thiện lớn về an toàn, chất lượng, hiệu quả và hiệu quả chăm sóc. 

Hy vọng trong tương lai không xa, các trường đại học và cao đẳng trong nước sớm mở thêm loại hình đào tạo chính quy kỹ sư hay cử nhân tin học y sinh học và sức khoẻ đáp ứng nhu cầu nhân lực để các bệnh viện thuận lợi hơn trong đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động chuyên môn và hoạt động quản lý.

Sở Y tế TP HCM


Tin liên quan