Nhận định, gợi ý đáp án môn Ngữ Văn kỳ thi lớp 10 ở Nghệ An

Sáng 3/6, hơn 36.000 thí sinh tại Nghệ An chính thức bước vào kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2021-2022. Môn thi đầu tiên là Ngữ Văn.

113 thí sinh thi riêng vì thuộc đối tượng giãn cách xã hội

Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2021 - 2022 tại Nghệ An được tổ chức trong 2 ngày (3 và 4/6), với sự tham gia của 36.407 thí sinh tại 70 hội đồng thi, 71 điểm thi.

Trong đó, có 1 điểm thi tại Trường THCS Diễn Bích (Diễn Châu) là điểm thi dành cho 113 thí sinh thuộc đối tượng đang phải giãn cách xã hội.

Toàn tỉnh Nghệ An có 1.558 phòng thi, trong đó, mỗi điểm thi có ít nhất 1 phòng thi dự phòng dành cho các đối tượng thuộc diện F1, F2, F3.

Thí sinh chỉ phải dự thi 3 môn là Toán, Ngữ văn và Ngoại ngữ. Trong đó, môn Toán và Ngữ văn lấy điểm hệ số 2 và Ngoại ngữ lấy điểm hệ số 1. Kết quả này cũng là một trong những căn cứ để lấy điểm tuyển sinh vào lớp 10 Trường THPT chuyên Phan Bội Châu.

Thí sinh bước vào môn thi đầu tiên.

Đề thi hay, phổ điểm từ 6-7 điểm

Tổ Ngữ văn – Hệ thống giáo dục HOCMAI đánh giá, đề thi Ngữ Văn ở kỳ thi lớp 10 Nghệ An khá hay, hoàn toàn có thể hình thành một trục chủ đề xuyên suốt là “Bóng cả yêu thương”, độ phân hoá đạt yêu cầu, đáp ứng được mục đích của một kì thi tuyển sinh, phổ điểm có thể rơi vào mức 6 - 7.

Về nội dung từng phần:

Câu 1. Đọc hiểu văn bản: Các câu hỏi ra đúng thứ tự mức tư duy. Hai câu hỏi nhận biết kiến thức Tiếng Việt và câu hỏi vận dụng nhẹ nhàng, mang tính khuyến khích học sinh. Câu hỏi thông hiểu chính là một nội dung quan trọng để phân hoá. Chỉ tiếc đề thi không ghi rõ mức điểm của từng câu hỏi thành phần để dư luận có thể đánh giá chính xác hơn về mức độ phân hoá cũng như học sinh cũng có cơ sở để phân bổ thời gian làm bài thuận tiện hơn.

  • Từ làm phép nối để liên kết hai đoạn văn ở phần in đậm là từ “nhưng”.
  • Từ láy được sử dụng trong câu văn: “xào xạc”.
  • Câu văn “Cây che nắng cháy gió mưa, che chở chim non đến khi đủ lông đủ cánh” vừa gợi những gian khó, vất vả trong cuộc đời cha mẹ vừa thể hiện tình yêu thương, sự chở che, bao bọc của cha mẹ với con cái trong hành trình dài rộng của cuộc đời.
  • Đây là một câu hỏi mở. Học sinh nêu cách hiểu của cá nhân. Cần lí giải thuyết phục, hợp lí. Sau đây là gợi ý:

Thông điệp tác giả muốn gửi gắm trong đoạn trích:

- Gia đình là điểm tựa vững chắc cho mỗi con người trong cuộc đời.

- Vì con, cha mẹ có thể chịu nhiều vất vả, gian khó.

- Sự thành công của mỗi con người luôn có hình bóng của cha mẹ.

- Mỗi người cần biết trân trọng những giây phút bên cha mẹ khi còn có thể.

Câu 2. Nghị luận xã hội: Vấn đề nghị luận không xa lạ nhưng cách nêu vấn đề khá hay, có sự nối kết chặt chẽ với nội dung văn bản đọc hiểu ở phần trên, đáp ứng tốt yêu cầu tích hợp đọc - viết (tiếp nhận văn bản - tạo lập văn bản), khơi gợi suy nghĩ, ý kiến từ những cảm xúc sâu sắc, tình cảm thiêng liêng dành cho cha mẹ.

Với độ tuổi của học sinh lớp 9, khi nhu cầu khẳng định bản thân đang dần hình thành, vấn đề nghị luận đã tạo ra “đất diễn” khá tốt để các em nói lên suy nghĩ riêng của mình. Đây cũng là câu hỏi phục vụ cho yêu cầu phân hoá của đề thi.

  • Về hình thức

- Xác định đúng yêu cầu cần nghị luận.

- Bài viết đảm bảo đầy đủ bố cục 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.

- Bài làm sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận, không mắc lỗi chính tả, lỗi diễn đạt, lỗi ngữ pháp.

- Bài làm sáng tạo và giàu cảm xúc.

  • Về nội dung
  • Xác định vấn đề cần nghị luận

Vai trò của tính tự lập đối với giới trẻ.

  • Triển khai vấn đề

* Giải thích

Tính tự lập là khả năng tự thực hiện mọi việc, không dựa dẫm vào người khác, sử dụng tài năng, bản lĩnh của cá nhân để làm chủ cuộc sống của mình.

* Bàn luận

Vai trò của tính tự lập:

- Tính tự lập giúp chúng ta thể hiện sự tự tin, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, nỗ lực vượt qua khó khăn trong cuộc sống.

- Tính tự lập giúp chúng ta tự giác chăm lo cho bản thân, hoàn thành các công việc giúp chúng ta trưởng thành, bản lĩnh, vững vàng hơn trong cuộc sống.

- Tính tự lập giúp chúng ta làm chủ cuộc sống của chính mình, sớm xây dựng kế hoạch hoàn thiện và phát triển bản thân, không trở thành gánh nặng hay sự ràng buộc cho những người xung quanh.

* Mở rộng vấn đề

 Tự lập khác với tự do, thích làm việc theo cảm xúc mà không suy nghĩ.

* Bài học nhận thức và hành động

- Cần vững tin vào bản thân và những điều mình tin tưởng, chủ động tự kiểm soát cuộc sống trong mọi việc: học tập, sinh hoạt,...

- Lắng nghe ý kiến của những người xung quanh để hoàn thiện bản thân.

- Kiên cường vượt qua mọi khó khăn, tránh thụ động, ỷ lại trong cuộc sống.

 Câu 3. Nghị luận văn học: Nội dung yêu cầu chọn một đoạn trích nói về cội nguồn sinh dưỡng, tuy yêu cầu đề đơn giản nhưng đây cũng là một đoạn thơ hay của tác phẩm, vừa khơi gợi tình cảm gia đình, vừa đào sâu mối liên hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Nội dung đề bài có tính liên kết với hai phần đọc hiểu và nghị luận xã hội, ngữ liệu quen thuộc, có nhiều yếu tố để khai thác, vừa giúp cho học sinh trung bình đạt được ngưỡng điểm khá ổn, vừa giúp học sinh khá giỏi có thể liên hệ kết nối, do vậy, vấn đề nêu ra an toàn nhưng vẫn có giá trị nhất định.

  • Về hình thức

- Xác định đúng yêu cầu cần nghị luận.

- Bài viết đảm bảo đầy đủ bố cục 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.

- Bài làm sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận, không mắc lỗi chính tả, lỗi diễn đạt, lỗi ngữ pháp.

- Bài làm sáng tạo và giàu cảm xúc.

  • Về nội dung
  • Xác định vấn đề cần nghị luận

Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người được thể hiện trong 9 câu thơ đầu trong bài thơ “Nói với con” của Y Phương.

  • Triển khai vấn đề

b.1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm.

- Giới thiệu vị trí, nội dung đoạn thơ cần cảm nhận.

b.2. Thân bài

* Bốn câu thơ đầu nhà thơ Y Phương nói với con về cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên của mỗi con người chính là gia đình

- Sử dụng cặp câu đăng đối trong các hình ảnh “chân phải” - “chân trái”, “cha” - “mẹ” và cách nói ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã tạo nên hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.

- Y Phương đã tái hiện được một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt và hạnh phúc tràn đầy. Từng bước đi chập chững, từng tiếng nói cười bi bô của con đều được cha mẹ nâng đón với một tình yêu vô bờ.

* Năm câu thơ sau nhà thơ Y Phương nói với con về cội nguồn sinh dưỡng thứ hai của mỗi con người là quê hương

- Con lớn lên trong cuộc sống cần cù, đoàn kết, lạc quan của con người quê hương

+ “Người đồng mình” chỉ những người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trên một vùng đất. Ba tiếng “người đồng mình” cùng với cách nói trực tiếp “yêu lắm con ơi” đã thể hiện tình cảm yêu mến, tự hào của tác giả về con người quê hương giản dị mà gắn bó, đoàn kết.

+ Người đồng mình khéo léo trong cuộc sống lao động: Chiếc “lờ” vốn mộc mạc được đan tỉ mỉ, tài hoa, trau chuốt thành “nan hoa”.

+ Người đồng mình lạc quan trong cuộc sống sinh hoạt: Những căn nhà thô sơ được người đồng mình lấp đầy bằng cách “ken” thêm vào những “câu hát”. Cuộc sống trong thung tuy nghèo khó nhưng con người luôn vui vẻ, lạc quan, hạnh phúc.

- Con lớn lên trong sự đùm bọc, che chở của con người và rừng núi quê hương

+ “Rừng cho hoa”: Rừng núi thơ mộng đem đến niềm vui, nuôi dưỡng xúc cảm thẩm mĩ cho con người.

+ “Con đường cho những tấm lòng”: Gợi vẻ đẹp tình nghĩa gắn bó giữa người với người, quê hương đã bồi đắp, chở che cho con người.

* Đánh giá: Bằng thể thơ tự do, hình ảnh giàu sức gợi cảm, mang đậm lối tư duy của người miền núi cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ, nhân hóa, Y Phương đã nói với con về cội nguồn sinh dưỡng, mong con hãy biết yêu, biết trân trọng gia đình, quê hương. Những tình cảm đó sẽ nâng bước con trên hành trình dài rộng của cuộc đời.

b.3. Kết bài: Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ.

Cô Nguyễn Thị Thu Trang, giáo viên Ngữ văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI cũng đánh giá đề thi Văn vào 10 của tỉnh Nghệ An năm nay kiểm tra khá toàn diện các đơn vị kiến thức, kĩ năng của thí sinh, ngữ liệu hay vừa sức và có tính thống nhất về chủ đề từ phần đọc hiểu đến nghị luận xã hội. Các câu hỏi không lắt léo hay đánh đố nhưng muốn hoàn thành tốt bài làm, các em cần nắm chắc những kiến thức trong chương trình học, có kiến thức thực tế để liên hệ, đưa dẫn chứng đồng thời cần có năng lực cảm thụ tốt.

Thầy Nguyễn Phi Hùng, giáo viên Ngữ văn trường THPT Anhxtanh cũng nhận định đây là đề thi có cấu trúc quen thuộc. Trong bối cảnh COVID-19 gây ra những ảnh hưởng tới việc học, ôn thi của học sinh, cấu trúc đề thi được giữ ổn định với những câu hỏi không quá khó, cho phép các em có sự tự tin nhất định để có thể làm bài thi tốt nhất. Học sinh ôn tập chỉn chu có thể hy vọng ở mức điểm khá.

Cô Đỗ Khánh Phượng, giáo viên Ngữ văn Phổ Thông Hermann Gmeiner cũng đưa ra lời khuyên cho học sinh lớp 8 chuẩn bị lên lớp 9 trong việc ôn tập: Với cấu trúc đề ổn định và quen thuộc, học sinh cũng có thể định hướng ôn tập ngay từ đầu, đó là chú trọng ôn một cách hệ thống phần kiến thức tiếng Việt, nắm được kiến thức cơ bản phần tập làm văn. Đặc biệt là trang bị cho mình khả năng lập luận để có thể làm tốt cả phần nghị luận xã hội lẫn phần văn học. Đề không lắt léo, không đánh bẫy học sinh nên với phần đọc văn các em cố gắng nắm chắc kiến thức căn bản, sau đó nâng cao luyện đề.

V.Linh/giadinhmoi.vn

Tin liên quan