Không có hộ khẩu thường trú hoặc sổ tạm trú dài hạn, khiến phần lớn trẻ di cư không được học ở các trường công lập. Nếu muốn con cái được học thì phải chấp nhận trái tuyến và học phí cao hơn, không đủ khả năng chi trả.
Ngày 24/5, Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao năng lực cho phụ nữ (CEPEW) đã phối hợp với Hiệp hội vì giáo dục cho mọi người Việt Nam (VAEFA) tổ chức Hội thảo chia sẻ kết quả nghiên cứu “Tiếp cận giáo dục mầm non của con em lao động di cư - Thực trạng và khuyến nghị chính sách”.
Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ dự án Quỹ Giáo dục xã hội dân sự (CSEF) giai đoạn 2016-2018 do Hiệp hội vì giáo dục cho mọi người Việt Nam (VAEFA) thực hiện.
Theo nghiên cứu, con em lao động di cư hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong tiếp cận giáo dục mầm non. Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra 5 hạn chế chính tồn tại.
Hạn chế đầu tiên là tình trạng thiếu trường mầm non công lập tại các KCN, KCX và những địa phương có đông lao động di cư tự do.
Theo thống kê năm 2017, cả nước có khoảng 260 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động với tổng số 2,8 triệu lao động. Thế nhưng mới chỉ có 112 trường mầm non ở các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Mặc dù Chính phủ đã có chính sách phát triển trường mầm non trong các khu có đông lao động nhưng quỹ đất quy hoạch để đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục mầm non là không đủ.
Chia sẻ về tình trạng này, Phó Chủ tịch UBND phường Khai Quang, Vĩnh Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc cho biết: “Do thiếu nhà trẻ, mẫu giáo cho con công nhân và người dân địa phương, nên mở thêm hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo vệ tinh tư thục, dân lập để lao động nhập cư gửi con… Tuy nhiên, một tháng hết khoảng 1-1,5 triệu đồng. Nhiều gia đình không đủ tiền, đành phải gửi con về quê nhờ ông bà chăm sóc”.
Theo thống kê sơ bộ của Bộ Giáo dục và đào tạo, tính đến đầu năm 2014, có khoảng 2/3 trong số hơn 16.000 lớp mầm non độc lập tự phát hoạt động được cấp phép.
Số còn lại chưa được cấp phép do các cơ sở này không đủ điều kiện về cơ sở vật chất và vướng mắc về thủ tục thuê địa điểm, đội ngũ giáo viên và nhân viên không ổn định, trình độ hạn chế.
Các chủ nhóm trẻ thiếu kinh nghiệm quản lý, chuyên môn nghiệp vụ về chăm sóc giáo dục mầm non yếu.
Ngoài ra, công tác kiểm tra giám sát của phòng giáo dục gặp khó khăn, không phát hiện kịp thời những sai sót để chấn chỉnh do nhóm trẻ, lớp mầm non độc lập tư thục tự phát nằm rải rác trong địa bàn dân cư.
Người lao động di cư không có thời gian dành cho bản thân và phải làm việc ca kíp, làm thêm giờ ảnh hưởng đến việc chăm sóc và nuôi dạy con cái.
Có tới 62% người được hỏi cho rằng trẻ em di cư không tham gia các hoạt dộng địa phương tổ chức và 25% cho rẳng ít tham gia do không có thông tin hay bố, mẹ bận đi làm nên không có thời gian đưa đón con tham gia.
Có tới 9% nam giới và 18% phụ nữ tham gia nghiên cứu cho rằng không bao giờ cho con đi chơi ở nơi công cộng.
Thêm vào đó, phần lớn trẻ con em lao động di cư tự do đều bị chi phối bởi việc kinh doanh phụ giúp gia đình.
Do vậy, trẻ khó có cơ hội, điều kiện học tập và vui chơi. Một số cha mẹ cho rằng việc học không quan trọng bằng việc kiếm tiền nên thường cho trẻ theo họ buôn bán, kinh doanh kiếm sống.
Cũng theo nhóm nghiên cứu, công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng trường mầm non ở các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu đông dân cư thiếu đồng bộ và còn khoảng trống trong thực hiện chính sách phát triển cơ sở mầm non ngoài công lập.
Các chính sách hiện tại về quy hoạch đất xây dựng các công trình phục vụ người lao động còn nhiều bất cập nên không đủ quỹ đất trong các khu công nghiệp để xây dựng trường mầm non.
Nghiên cứu nhận định, quản lý dân cư bằng hộ khẩu là rào cản đối với trẻ em di cư tiếp cận hệ thống giáo dục công lập.
Theo quy định hiện hành, điều kiện quan trọng nhất để trẻ nhập học ở các trường công lập là có hộ khẩu thường trú hoặc sổ tạm trú dài hạn. Đây là một rào cản lớn khiến phần lớn trẻ di cư không được học ở các trường công lập.
Nếu không có hộ khẩu, trẻ được xem ở diện trái tuyến. Trong trường hợp này, trẻ chỉ được nhận học nếu lớp học còn chỗ, đóng tiền trái tuyến và/hoặc trẻ phải đóng học phí cao hơn.
Trong khi đó, lao động di cư muốn gửi con ở trường công lập vì miễn học phí cho bậc tiểu học và học phí hợp lý ở bậc học mầm non, giáo viên có chuyên môn nghiệp vụ, cơ sở vật chất đầy đủ và độ an toàn cho trẻ cao hơn.
Tuy nhiên, con em lao động di cư rất khó tiếp cận các trường công lập do quy định khắt khe về thủ tục nhập học. Do đó, bố mẹ phải gửi con vào các trường tư thục hoặc những cơ sở trông giữ trẻ tư nhân tự phát hay nhóm trẻ gia đình.
Từ những thực tế điều tra được trong nghiên cứu, hai tổ chức CEPEW và VAEFA đã đề xuất một số khuyến nghị cụ thể đối với chính quyền và địa phương. Cụ thể:
+ Chính quyền các địa phương có KCN, KCX và có đông người lao động di cư thực hiện rà soát, dự báo, điều chỉnh quy hoạch phát triển các dịch vụ công bao gồm mầm non công lập gắn với nhà ở của công nhân nhằm bảo đảm trẻ di cư không bị phân biệt đối xử trong tiếp cận giáo dục bao gồm các khoản đóng góp trái tuyến vào các trường công lập.
+ HĐND ở các địa phương có đông KCN, KCX ban hành nghị quyết để các trường mầm non công lập ở các KCN, KCX nhận trông trẻ ngoài giờ và ngày nghỉ với chi phí phù hợp để lao động di cư gửi con trong thời gian tăng ca.
+ Vụ Giáo dục mầm non thuộc Bộ GD-ĐT thống kê số lượng lao động và trẻ em di cư ở các bậc học này tại các địa phương có nhiều KCN, KCX để để xuất tăng phân bổ ngân sách cho các địa phương này nhằm thúc đẩy phổ cập giáo dục mầm non theo tinh thần Luật Giáo dục (sửa đổi) 2015.
+ Bộ Công an đề xuất Chính phủ điều chỉnh, bổ sung Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30/10/2017 của Chính phủ về việc đơn giản hoá thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quả lý của Bộ CA nhằm loại bỏ hộ khẩu ra khỏi thủ tục đăng ký nhập học để mọi trẻ em bình đẳng tiếp cận hệ thống giáo dục và y tế công lập.
Các khuyến nghị trên nhận được nhiều hưởng ứng và các ý kiến đóng góp từ các đại biểu tham dự hội thảo.
Chị Vân Anh, giảng viên đại học, cho rằng các KCN, KCX phải có nhà trẻ dành cho con em người lao động di cư mà họ thu hút về làm việc cho họ; tương tự như việc các bệnh viện tuyến trung ương bắt buộc phải có phòng công tác xã hội.