Có tới 33% của các bà mẹ đã trải qua trầm cảm hoặc rối loạn lo âu trong một giai đoạn nào đó của thai kỳ. Hệ quả của việc này còn dẫn đến hàng loạt các nguy cơ xảy ra cho thai nhi: từ việc sinh non, nhẹ cân cho đến sức đề kháng kém...
Một số nghiên cứu khác chỉ ra rằng có ít hơn 20% các bà bầu thăm khám về tình trạng trầm cảm, và việc điều trị vẫn chưa thích hợp.
Healy Smith, chuyên gia tâm lý về sinh sản tại Phòng Khám Sức Khỏe Tâm thần Phụ nữ, Bệnh viện Presbyterian New York cho rằng:
‘Lầm tưởng rằng phụ nữ sẽ cảm thấy hạnh phúc khi mang bầu vẫn tồn tại. Vì vậy, việc điều trị dường như không đáp ứng được với tình trạng tinh thần của các bà bầu. Phụ nữ cũng có thể cảm thấy xấu hổ khi bày tỏ tình trạng của mình’.
Mặt khác, có thể một số triệu chứng của bệnh trầm cảm lại bị che lấp bởi triệu chứng của thai kỳ, ví dụ như: chán ăn, mệt mỏi, mất tập trung hoặc khó ngủ...
Để phát hiện sớm và điều trị thích hợp, chúng ta cần nhận diện những triệu chứng của trầm cảm thai kỳ, bao gồm:
Bất cứ ai cũng có thể bị trầm cảm hoặc lo lắng trong thời kỳ mang thai, nhưng phụ nữ với những yếu tố nguy cơ này rất dễ bị tổn thương:
Nếu lo âu và trầm cảm không được điều trị trong khi mang thai, nhiều hậu quả nghiêm trọng có thể xảy đến với cả người mẹ và thai nhi.
Để tránh những hậu quả nghiêm trọng này, phụ nữ mang thai có dấu hiệu trầm cảm cần được chẩn đoán và điều trị sớm.
Các bác sĩ cảnh báo, nếu bạn từng bị trầm cảm trước khi mang thai và đang điều trị bằng thuốc, cần phải hỏi ý kiến bác sĩ về việc nên hay không nên tiếp tục uống thuốc.
Một nghiên cứu năm 2006 đăng trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Mỹ cho thấy ‘những phụ nữ ngưng dùng thuốc chống trầm cảm xung quanh thời gian thụ thai có cơ hội tái phát trầm cảm lên đến 68% trong thời kỳ mang thai, so với 26% đối với những phụ nữ tiếp tục dùng thuốc’.
Điều quan trọng nhất các bác sĩ khuyến cáo thai phụ là không bỏ qua những triệu chứng trầm cảm hoặc lo lắng của mình. Hãy nói chuyện với bác sĩ sản khoa hoặc bác sĩ tâm lý ngay khi nhận ra những triệu chứng bất thường của bản thân.