Bác sĩ Nguyễn Thị Nhã, Trưởng Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh điện Bưu điện chia sẻ, thực phẩm là nguồn cung cấp dinh dưỡng tự nhiên rất tốt cho bà bầu. Dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai của người mẹ có vai trò then chốt để sinh ra những em bé khỏe mạnh và là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của trẻ sau này.
Tuy nhiên, trong thời kỳ mang thai không phải mẹ bầu cứ ăn thật nhiều, ăn đa dạng các loại thực phẩm là tốt, bởi có một số loại thực phẩm là “khắc tinh” với bà bầu. Nếu ăn những thực phẩm “khắc tinh” này bà bầu có thể bị sảy thai.
Để bảo vệ thai nhi, nhất là trong 3 tháng đầu của thai kỳ, bà bầu cần tránh ăn những thực phẩm sau:
Đu đủ xanh: Nhựa của đu đủ xanh hoặc chưa chín hẳn có chứa rất nhiều enzymes và mủ có thể gây ra phù và xuất huyết nhau thai dẫn tới sảy thai hoặc sinh non. Hơn nữa, đu đủ xanh còn chứa prostaglandin và oxytocin là những chất mà cơ thể rất cần để khởi động cho giây phút ra đời của đứa trẻ. Vì thế, bà bầu ăn đu đủ xanh có thể dẫn tới sinh non, nhất là trong ba tháng đầu của thai kỳ.
Rau ngót: Đây là loại rau chứa nhiều chất dinh dưỡng nhưng lại không thích hợp cho bà bầu, bởi rau ngót có tác dụng co bóp cổ tử cung nên dễ dẫn đến sảy thai, nhất là ở ba tháng đầu của thai kỳ. Chính vì vậy mà bà bầu thường được khuyên hạn chế ăn rau ngót trong 3 tháng đầu của thai kỳ để đảm bảo an toàn cho thai nhi.
Dứa: Loại quả này cũng có khả năng làm tăng co bóp tử cung và làm mềm thành tử cung nên bà bầu ăn nhiều có thể bị sảy thai. Chính vì vậy mà phụ nữ có thai thường được khuyến cáo không nên ăn dứa trong những tháng đầu của thai kỳ để tránh thai nhi bị đẩy ra ngoài do tử cung co bóp mạnh.
Nha đam: Trong những tháng đầu mang thai, bà bầu cũng được các bác sĩ sản khoa khuyến cáo không nên ăn nha đam vì có thể gây co thắt tử cung và làm ảnh hưởng không tốt đến thai nhi, thậm chí có thể gây sảy thai.
Ngải cứu: Mặc dù được biết đến là một loại thảo dược tốt cho sức khỏe, có tác dụng giảm đau cơ bắp, giúp lưu thông máu, giảm đau bụng, nhưng với phụ nữ mang thai ở giai đoạn đầu, nếu thường xuyên ăn ngải cứu sẽ làm tăng nguy cơ chảy máu, co thắt tử cung và có thể dẫn đến sảy thai hoặc sinh non.
Rau răm: Ăn nhiều rau răm sẽ dễ bị mất máu. Rau răm còn có chứa chất gây co bóp tử cung và dễ bị sảy thai. Do đó, bà bầu không nên ăn nhiều rau răm để tránh ảnh hưởng đến thai nhi, đặc biệt phụ nữ có thai 3 tháng đầu thì nên hạn chế ăn rau răm.
Ngoài ra, phụ nữ có thai cũng cần chú ý không dùng các loại chất kích thích như rượu, cà phê, nước chè đặc, thuốc lá...; Giảm ăn các loại gia vị gây kích thích như ớt, hạt tiêu, dấm, tỏi; Nên ăn nhạt (bớt muối), nhất là các bà mẹ bị phù thận, để giảm phù và tránh tai biến khi đẻ; Tránh dùng kháng sinh có thể gây hại cho trẻ như Tetraxyclin làm hỏng răng, Streptomyxin gây ù tai, nghễnh ngãng...
Bổ sung các vitamin và khoáng chất nào để thai nhi khỏe mạnh?
Theo khuyến cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, các loại vitamin và khoáng chất cần bổ sung khi mang thai gồm:
- Sắt: tình trạng thiếu sắt dẫn đến thiếu máu ở người mẹ ảnh hưởng đến mức tăng cân của mẹ trong thời gian mang thai cũng như cân nặng của trẻ sơ sinh làm tăng nguy cơ bị biến chứng sản khoa. Sắt có nhiều trong thịt, cá, trứng, các loại nhuyễn thể như nghêu, sò, ốc, hến, trong ngũ cốc, đậu đỗ các loại, trong phủ tạng, đặc biệt là tiết. Người mẹ mang thai nên bổ sung 60mg sắt nguyên tố/ngày trong suốt thời gian mang thai đến sau đẻ 1 tháng.
- Canxi: Canxi tích trữ trong thời gian mang thai tổng số gần 30g tất cả, gần như tương ứng với việc tạo bộ xương thai nhi 3 tháng cuối của thai kỳ. Lượng canxi ăn vào được khuyến cáo là 800- 1000mg mỗi ngày trong suốt thời gian bà mẹ mang thai và cho con bú. Canxi có nhiều trong tôm, cua, cá, sữa và chế phẩm của sữa. Để tăng thêm canxi trong khẩu phần, người mẹ mang thai cần uống thêm sữa giàu canxi và các sản phẩm chế biến từ sữa như sữa chua, phomat, hoặc uống bổ sung viên canxi kèm theo vitamin D.
- Kẽm: thiếu kẽm gây nên vô sinh, sẩy thai, sinh non hoặc sinh già tháng, thai chết gần ngày sinh và sinh không bình thường. Nhu cầu kẽm của người mẹ mang thai là 15mg/ngày. Nguồn cung cấp kẽm tốt nhất là thịt, cá, hải sản. Các thức ăn thực vật cũng có kẽm nhưng hàm lượng thấp và hấp thu kém.
- Iốt: thiếu iốt ở phụ nữ thời kỳ mang thai có thể gây sảy thai tự nhiên, thai chết lưu, đẻ non. Khi thiếu iốt nặng, trẻ sinh ra có thể bị đần độn với tổn thương não vĩnh viễn. Trẻ sơ sinh có thể bị các khuyết tật bẩm sinh như liệt tay hoặc chân, nói ngọng, điếc, câm, mắt lác. Nhu cầu iốt của phụ nữ mang thai là 175- 200mcg iốt/ngày. Nguồn thức ăn giàu iốt là những thức ăn từ biển như cá biển, sò, rong biển... Ngoài ra, phụ nữ mang thai nên sử dụng muối, bột canh có tăng cường iốt.
- Axit Folic: Thiếu axit folic ở người mẹ có thể dẫn đến thiếu cân ở trẻ sơ sinh. Axit folic có vai trò bảo vệ chống lại những khiếm khuyết của ống thần kinh trong sự thụ thai. Vì thế nhu cầu axit folic ở người mẹ có thai là 300- 400mcg/ngày. Nguồn cung cấp axit folic là rau xanh, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, các thực phẩm có bổ sung axit folic hoặc viên đa vi chất có axit folic.
- Vitamin A: có vai trò đặc biệt trong hoạt động thị giác, tăng cường miễn dịch trong cơ thể. Thiếu vitamin A sẽ dẫn đến tăng tỷ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn và tử vong, gây khô mắt, có thể dẫn đến mù loà vĩnh viễn nếu không được điều trị. Đối với người phụ nữ có tình trạng dinh dưỡng tốt, không cần bổ sung vitamin A trong suốt thời gian mang thai nếu đảm bảo đủ nhu cầu vitamin A 600mcg/ngày bằng cách thức ăn tự nhiên. Sữa, gan, trứng... là nguồn vitamin A động vật, dễ dàng được hấp thu và dự trữ trong cơ thể. Tất cả các loại rau xanh, nhất là rau ngót, rau dền, rau muống và các loại củ quả có màu vàng, màu đỏ như cà rốt, xoài, bí đỏ là những thức ăn nhiều caroten, còn gọi là tiền vitamin A, vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A.
- Vitamin D: giúp cho sự hấp thu các khoáng chất như canxi, phospho. Nếu cơ thể thiếu vitamin D, lượng canxi chỉ được hấp thu khoảng 20%, dễ gây các hậu quả như trẻ bị còi xương ngay trong bụng mẹ hay trẻ đẻ ra bình thường nhưng thóp sẽ lâu liền. Những phụ nữ có thai nên có thời gian hoạt động ngoài trời càng nhiều càng tốt. Nên được bổ sung vitamin D 10mcg/ngày, sử dụng các thực phẩm giàu vitamin D như phomát, cá, trứng, sữa, hoặc các thực phẩm có tăng cường vitamin D. Ngoài ra người mẹ có thể phòng còi xương cho con bằng cách uống vitamin D khi thai được 7 tháng: 600.000UI/3 tuần, mỗi tuần 200.000UI.
- Vitamin B1: là yếu tố cần thiết để chuyển hoá gluxit. Các loại hạt cần dự trữ vitamin B1 cho quá trình nảy mầm do đó ngũ cốc và các hạt họ đậu là những nguồn vitamin B1 tốt. Ăn gạo không giã trắng quá, không bị mục, mốc, nhất là ăn nhiều đậu đỗ là cách tốt nhất bổ sung đủ vitamin B1 cho nhu cầu cơ thể (1,1mg/ngày) và chống được bệnh tê phù.
- Vitamin B2: tham gia quá trình tạo máu nên nếu thiếu vitamin B2 sẽ gây thiếu máu nhược sắc. Nhu cầu vitamin B2 là 1,5mg/ngày. Vitamin B2 có nhiều trong thức ăn động vật, sữa, các loại rau, đậu... Các hạt ngũ cốc toàn phần là nguồn B2 tốt nhưng bị giảm đi nhiều qua quá trình xay xát.
- Vitamin C: có vai trò lớn trong việc làm tăng sức đề kháng của cơ thể, hỗ trợ hấp thu sắt từ bữa ăn, góp phần phòng chống thiếu máu do thiếu sắt. Vitamin C có nhiều trong các quả chín. Rau xanh có nhiều vitamin C nhưng bị hao hụt nhiều trong quá trình nấu nướng. Đối với phụ nữ có thai, nhu cầu vitamin C là 80mg/ ngày và đối với bà mẹ cho con bú là 100mg. Để đáp ứng đầy đủ các vitamin và khoáng chất như trên, ngoài việc lựa chọn thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng, phụ nữ mang thai nên uống loại viên multivitamin và khoáng chất dành cho bà mẹ mang thai hàng ngày theo sự hướng dẫn của bác sĩ dinh dưỡng.