Khó lường với triệu chứng đau nhức vùng cổ, vai gáy
Chị H. là nhân viên văn phòng, có tiền sử khỏe mạnh nhưng từ 2 tháng nay, chị bắt đầu xuất hiện triệu chứng đau vùng cổ gáy, nhức vai phải. Cứ nghĩ do đặc thù công việc ngồi nhiều dẫn đến đau mỏi cơ, chị H. có cân đối nghỉ ngơi, xoa bóp, chườm ấm vùng đau…. Tuy nhiên, tình trạng bệnh không giảm mà còn thấy hiện tượng giảm sức cơ tay phải khi lao động ngày càng có xu hướng tăng nặng.
Lo lắng cho tình trạng sức khỏe bản thân, chị H. đã đến Phòng khám Đa khoa Thu Cúc (32 Đại Từ, Hà Nội) thăm khám. Tại đây, bệnh nhân còn được bác sĩ phát hiện thêm nhiều triệu chứng bất thường khác như mất giác giác nóng lạnh tại tay phải, mất cảm giác đau tại tay phải dù có bị đứt tay, phản xạ gân xương tại tay phải cũng suy giảm nghiêm trọng.
Để tìm hiểu rõ nguyên nhân, bác sĩ Vũ Hải Yến – chuyên gia Nội Thần kinh, Phòng khám Đa Khoa Thu Cúc đã chỉ định cho bệnh nhân thực hiện chụp cộng hưởng từ (MRI). Kết quả chụp cộng hưởng cho thấy trong đoạn tủy sống của chị H. từ khu vực cột sống cổ gáy đến giữa lưng hình thành hốc rỗng chứa đầy dịch tủy, các dịch này tích lại thành các khoang và nang hốc. Đây là biểu hiện đặc trưng của căn bệnh rỗng tủy (Syringomyelia) - bệnh mạn tính hiếm gặp ở tủy sống với tỷ lệ mắc rất ít: 8,4/100 000, thường tập trung ở độ tuổi 20-50.
Bác sĩ Vũ Hải Yến cho biết: “Ban đầu, chúng tôi cũng chỉ nghi ngờ bệnh nhân bị đau mỏi cổ vai gáy do mắc phải bệnh lý về cổ vai gáy. Tuy nhiên, qua kiểm tra, bệnh nhân không nhận biết được nóng lạnh tại tay phải và cảm giác đau dù bị đứt tay phải trong khi tay trái vẫn bình thường. Đây đều là những dấu hiệu bất thường vì vậy cần phải có kết quả chụp cộng hưởng từ MRI cột sống và tuỷ sống để đánh giá tình trạng tổn thương cột sống cũng như loại trừ các bệnh lý khác có liên quan”.
Theo BS. Nguyễn Chí Phồn – Trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh (Phòng khám Đa khoa Thu Cúc), máy chụp cộng hưởng từ MRI có thể phát hiện chính xác nhất các tổn thương thần kinh tương ứng vùng cổ (thoát vị đĩa đệm, viêm tủy, u ống nội tủy, xơ cứng rải rác,...). Nhất là khi có tiêm thuốc đối quang từ việc đánh giá tính chất tổn thương sẽ càng rõ và dễ chẩn đoán hơn. Đây là công cụ đáng tin cậy nhất để chẩn đoán bệnh phức tạp như rỗng tủy sống.
Hiện tại, chị H. được các bác sĩ chuyên khoa Nội thần kinh tại Phòng khám ĐK Thu Cúc tư vấn thăm khám định kỳ thường xuyên 2 tháng/lần, chụp MRI 6 tháng/lần để đánh giá và bổ sung các loại vitamin nhóm B, sử dụng một số loại thuốc giúp làm giảm triệu chứng đau mỏi, tê bì.
Đồng thời khuyến cáo bệnh nhân cần hạn chế công việc phải cúi ngửa nhiều, các công việc cần sự tinh tế ở bàn tay đặc biệt là tay phải. Bên cạnh đó, người bệnh cần tập các bài tập phục hồi chức năng tổn thương tủy sống. Nếu mức độ nặng gây thiếu hụt thần kinh nhiều các bác sĩ có thể phải chỉ định can thiệp ngoại khoa để hút dịch trong ống rỗng giúp giải phóng chèn ép tủy, làm ngừng sự diễn tiến của bệnh, bởi vì rỗng tủy hiện nay chưa có phương pháp điều trị triệt để.
Nguyên nhân nào gây ra bệnh rỗng tủy hiếm gặp?
Theo TS.BS Nguyễn Vũ, Phó trưởng khoa Ngoại Thần kinh Cột sống, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, rỗng tủy là bệnh mạn tính ở tủy sống do ở trong đoạn tủy sống hình thành một hốc rỗng ở trung tâm của chất xám chứa dịch não tủy. Dịch não tủy tích lại hình thành các khoang hoặc nang hốc phát triển lớn dần và gây huỷ hoại tuỷ và biểu hiên lâm sàng bởi những rối loạn vận động, cảm giác và dinh dưỡng. Bệnh có thể gặp cả ở cổ, ngực và thắt lưng, tuy nhiên tỷ lệ gặp nhiều nhất nằm ở ranh giới giữa tủy cổ và tủy ngực.
Có nhiều nguyên nhân gây ra căn bệnh rỗng tủy, trong đó có một số lượng không nhỏ là nguyên nhân vô căn (tức là không xác định được nguyên nhân) và có trường hợp có căn nguyên như:
- Di tật cột sống bẩm sinh
- Sau chấn thương
- Phối hợp với não úng thủy
- Dị dạng cổ chẩm
- Viêm tủy sống thắt lưng
- Nang hố sau.
- U của chẩm lỗ lớn.
Bệnh rỗng tủy có hai thể nguyên phát và thứ phát, do lưu thông dịch não tuỷ bị tắc nghẽn hoặc bị rối loạn. Điều này có thể tạo nên khoang bất thường chứa đầy dịch não tuỷ của bệnh rỗng tủy sống. Gặp trong chấn thương (di chứng của chảy máu trong tủy sống hay viêm màng nhện tủy), hoặc do khối u của tủy sống (u thần kinh đệm, u mạch máu) hoặc do bất thường bẩm sinh gọi là dị dạng Chiari và các chấn thương trong khi sinh là nguy cơ của bệnh rỗng tuỷ sống. Một số hiếm trường hợp bệnh rỗng tuỷ sống là do di truyền.
Triệu chứng nhận biết bệnh rỗng tủy
TS.BS Nguyễn Vũ cho biết, những triệu chứng đầu tiên của bệnh thường ảnh hưởng đến gáy, vai, cánh tay và bàn tay, bao gồm yếu cơ, teo cơ và mất phản xạ gân cơ. Đôi khi mất nhận cảm đau hoặc nóng lạnh, đặc biệt là ở bàn tay. Ngoài ra có thể gặp: đau và cứng gáy, vai, cổ, cánh tay và chân, rối loạn đại tiện và tiểu tiện.
“Để phát hiện được bệnh thì cần chú ý đến các dị cảm (rối loạn cảm giác). Khác với việc giảm cảm giác (mất cảm giác hoặc cảm giác kém), dị cảm là các cảm giác kim châm, kiến bò.
Nhiều bệnh nhân mô tả, bản thân như đang bị bao nhiêu con giòi bò dưới da, giòi trong xương hay da lúc nào cũng dấm dứt như có cái gì chọc vào da, hoặc có người phải đi thay quần áo vì cứ hễ mặc quần áo vào là có cảm giác như có gai đâm vào da thịt…
Đấy là những triệu chứng gặp rất nhiều ở bệnh nhân rỗng tủy, những dị cảm này làm bệnh nhân khó chịu và đi kiểm tra” – bác sĩ Vũ thông tin thêm.
Đa phần bệnh nhân rỗng tủy đến khám muộn và thường bị nhầm lẫn với bệnh khác vì rỗng tủy đa phần là hậu quả của một bệnh khác như não úng thủy, u, dị dạng cổ chẩm…
“Người ta phân biệt bệnh rỗng tủy với bệnh chèn ép rễ thần kinh khác (như bẹnh thoát vị đĩa đệm) ở chỗ, bệnh rỗng tủy theo khoanh tủy chi phối nên nó thường bị cả 2 bên, ví dụ bị cả 2 tay hoặc bị cả 2 tay 2 chân, mà không bị 1 bên giống như bệnh thoát vị đĩa đệm hay các bệnh lý chèn ép rễ thần kinh khác” – bác sĩ Vũ cho biết.
Để phát hiện căn bệnh rỗng tủy thì chụp cộng hưởng từ (MRI) cột sống và tuỷ sống là công cụ đáng tin cậy nhất để chẩn đoán bệnh. Trong một số trường hợp, bác sĩ chuyên khoa sẽ tiêm chất cản giúp phân biệt hình ảnh của khối u hay các bất thường khác.
Điều trị bệnh rỗng tủy thế nào?
Theo các chuyên gia thần kinh, rỗng tủy là bệnh mạn tính nên không để điều trị khỏi hoàn toàn. Hiện có 2 phương pháp điều trị bệnh là điều trị bằng nội khoa và ngoại khoa. Điều trị nội khoa chỉ có thể điều trị triệu chứng và việc điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân bệnh, tình trạng, tuổi cũng như các triệu chứng của người bệnh.
Khi điều trị nội khoa không đỡ sẽ tiến hành điều trị ngoại khoa. Bởi nếu không được phẫu thuật, bệnh rỗng tuỷ sống thường dẫn đến yếu tay và chân tiến triển, mất cảm giác bàn tay và đau, yếu mạn tính.
Phẫu thuật giải chèn ép và dẫn lưu nang dịch sẽ làm ngừng sự diễn tiến của bệnh, đôi khi làm các triệu chứng thần kinh có sẵn khá lên. Nếu bệnh rỗng tuỷ sống tái phát sau phẫu thuật thì có thể cần phải phẫu thuật thêm.
Việc phát hiện và điều trị sớm sẽ mang lại hiệu quả tích cực cho người bệnh. Do đó, các chuyên gia khuyến cáo, mọi người cần chủ động đi thăm khám khi gặp các tình huống sau:
- Sau chấn thương, đặc biệt vùng đầu và cột sống
- Triệu chứng đau mỏi kéo dài, không đỡ hoặc đỡ ít khi nghỉ ngơi, xoa bóp
- Khi xuất hiện các triệu chứng: tê bì, yếu cơ, giảm/mất cảm giác đau, nóng/lạnh, teo cơ
An AnBạn đang xem bài viết Tưởng đau cổ vai gáy bình thường hóa ra mắc bệnh hiếm gặp tại chuyên mục Tin y tế của Gia Đình Mới, tạp chí chuyên ngành phổ biến kiến thức, kỹ năng sống nhằm xây dựng nếp sống gia đình văn minh, tiến bộ, vì bình đẳng giới. Tạp chí thuộc Viện Nghiên cứu Giới và Phát triển (Liên Hiệp Các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam), hoạt động theo giấy phép 292/GP-BTTTT. Bài viết cộng tác về các lĩnh vực phụ nữ, bình đẳng giới, sức khỏe, gia đình gửi về hòm thư: [email protected].