Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA), đối với hầu hết mọi người, nguy cơ ăn cá và động vật có vỏ bị ô nhiễm không phải là một vấn đề đáng ngại.
Tuy nhiên, một số nhóm người như phụ nữ mang thai, trẻ em và người già có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những nhóm khác. Ngoài ra, một số cá nhân có nguy cơ cao hơn vì họ ăn nhiều cá hơn những người khác.
Đối với phụ nữ đang mang thai, trẻ nhỏ, người lớn tuổi hoặc người có hệ miễn dịch yếu, để tránh ngộ độc thực phẩm khi ăn cá, không nên:
- Ăn cá sống, hải sản tái (như tôm, cua tái), hải sản hun khói để lạnh.
- Động vật có vỏ sống (bao gồm hàu, trai, trai và sò điệp).
1. Phụ nữ mang thai hoặc cho con bú
Giá trị dinh dưỡng của cá rất quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển cho bé, kể cả từ giai đoạn trước khi sinh, sơ sinh, bú mẹ.
Rủi ro sức khỏe từ thủy ngân trong cá và động vật có vỏ phụ thuộc vào lượng cá và động vật có vỏ mà một người tiêu thụ và nồng độ thủy ngân trong từng loại cá cụ thể.
Một số loại cá chứa hàm lượng thủy ngân cao hơn có thể gây hại cho thai nhi hoặc hệ thần kinh đang phát triển của trẻ nhỏ.
Do đó, phụ nữ đang mang thai và cho con bú có nguy cơ khiến con bị nhiễm độc nếu ăn những loại cá này.
Lời khuyên của EPA-FDA: Những người đang mang thai hoặc đang cho con bú chỉ nên ăn 2 - 3 khẩu phần cá (225 - 340 gram) mỗi tuần và nên chọn loại cá có hàm lượng thủy ngân thấp.
Dưới đây là mức thủy ngân trung bình ở các loại cá và hải sản khác nhau, từ cao nhất đến thấp nhất:
- Cá kiếm: 0,995 ppm
- Cá mập: 0,979 ppm
- Cá thu vua: 0,730 ppm
- Cá ngừ mắt to: 0,689 ppm
- Marlin: 0,485 ppm
- Cá ngừ đóng hộp: 0,128 ppm
- Cá tuyết: 0,111 ppm
- Tôm hùm Mỹ: 0,107 ppm
- Cá trắng: 0,089 ppm
- Cá trích: 0,084 ppm
- Hake: 0,079 ppm
- Cá hồi: 0,071 ppm
- Cua: 0,065 ppm
- Haddock: 0,055 ppm
- Cá thu Đại Tây Dương: 0,050 ppm
- Tôm càng xanh: 0,035 ppm
- Cá da trơn: 0,025 ppm
- Mực: 0,023 ppm
- Cá hồi: 0,022 ppm
- Cá cơm: 0,017 ppm
- Cá mòi: 0,013 ppm
- Hàu: 0,012 ppm
- Sò điệp: 0,003 ppm
- Tôm: 0,001 ppm
2. Trẻ em
Lời khuyên của EPA-FDA: Trẻ em chỉ nên ăn 1 - 2 khẩu phần cá mỗi tuần với những loại cá và động vật có vỏ có lượng thủy ngân thấp. Khẩu phần của trẻ em nhỏ hơn người lớn và được tính như sau:
- 1 đến 3 tuổi nên ăn 28 gram mỗi khẩu phần
- 4 đến 7 tuổi nên ăn 56 gram mỗi khẩu phần
- 8 đến 10 tuổi nên ăn 85 gram mỗi khẩu phần
- Từ 11 tuổi trở lên có thể ăn khẩu phần dành cho người lớn là 113 gram mỗi khẩu phần.
3. Người già và người có bệnh nền
Người già và người có bệnh nền có thể dễ bị ảnh hưởng xấu đến sức khỏe khi ăn cá bị ô nhiễm, ngay cả với mức độ ô nhiễm thấp.
Cả hai nhóm này đều có nguy cơ bị ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe cao hơn vì cơ thể của họ khó có thể đào thải các chất gây ô nhiễm này một cách an toàn.
Vì vậy, những người này nên hạn chế tiêu thụ cá và động vật có vỏ có nguy cơ bị ô nhiễm.
4. Người ăn quá nhiều cá hơn bình thường
Ăn cá thường xuyên và/hoặc với số lượng lớn có thể gây nguy cơ sức khỏe đáng kể vì thủy ngân và các chất gây ô nhiễm khác có xu hướng tích tụ trong cơ thể theo thời gian.
Điều này có thể khiến cơ thể bị nhiễm độc nhiều hơn.
Những người câu cá thể thao, câu cá giải trí cũng như những người nuôi cá tự cung tự cấp đều có nguy cơ gặp nguy hiểm cao hơn vì những nhóm này có xu hướng ăn nhiều cá hơn người bình thường.
Theo EPA, những nhóm người này nên đặc biệt chú ý đến loại cá họ tiêu thụ, số lượng cá và vùng nước nơi họ ăn cá để đảm bảo không gây nguy hiểm cho sức khỏe của mình.
Hoàng NguyênBạn đang xem bài viết Cá rất tốt nhưng 4 nhóm người sau tốt nhất nên thận trọng khi ăn cá tại chuyên mục Sống khỏe của Gia Đình Mới, tạp chí chuyên ngành phổ biến kiến thức, kỹ năng sống nhằm xây dựng nếp sống gia đình văn minh, tiến bộ, vì bình đẳng giới. Tạp chí thuộc Viện Nghiên cứu Giới và Phát triển (Liên Hiệp Các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam), hoạt động theo giấy phép 292/GP-BTTTT. Bài viết cộng tác về các lĩnh vực phụ nữ, bình đẳng giới, sức khỏe, gia đình gửi về hòm thư: [email protected].