Báo Điện tử Gia đình Mới
Báo Điện tử Gia đình Mới
Báo Điện tử Gia đình Mới
Báo Điện tử Gia đình Mới

Những giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam đương đại và một số vấn đề đang đặt ra

Bài nghiên cứu của PGS.TS. TRẦN THỊ MINH THI, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Tóm tắt: Dựa trên một số kết quả của đề tài “Các giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới chủ trì thực hiện năm 2017-2018 và số liệu thống kê về hôn nhân, gia đình từ các cuộc Tổng Điều tra Dân số, Nhà ở của Tổng cục Thống kê, bài viết phân tích một số giá trị nổi bật của gia đình Việt Nam hiện nay và đưa ra khuyến nghị về các giá trị gia đình quan trọng cần quan tâm trong bối cảnh mới.

Kết quả nghiên cứu về giá trị gia đình Việt Nam hiện nay cho thấy rõ nét các biểu hiện phong phú của giá trị gia đình truyền thống và giá trị gia đình hiện đại, sự bền vững của văn hóa trong hiện đại hóa, sự chuyển đổi từ giá trị hiện đại sang hậu hiện đại, khác biệt giới, và sự ảnh hưởng của quá trình thể chế hóa hệ thống pháp luật và chính sách đến việc hình thành các giá trị và quan niệm mới của các gia đình. Bốn giá trị gia đình quan trọng bài viết đề xuất cần quan tâm trong giai đoạn tới đó là an toàn, thịnh vượng, bình đẳng, trách nhiệm. 

1. Đặt vấn đề

Gia đình là một thiết chế xã hội độc lập, có mối quan hệ tương tác với các thiết chế xã hội khác và có tác động to lớn đến sự phát triển xã hội nói chung. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong xây dựng, triển khai, thụ hưởng các chính sách chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa; là thiết chế quan trọng đảm bảo quy mô và chất lượng dân số thông qua chức năng sinh đẻ, giáo dục, và đầu tư phát triển nguồn lực con người. Gia đình là nơi giữ gìn và trao truyền các giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, vun đắp, xây dựng gia đình là điều kiện quan trọng để phát triển bền vững.

Trong vài thập niên qua, hôn nhân và gia đình Việt Nam trải qua những biến chuyển quan trọng, từ kiểu mẫu truyền thống sang kiểu gia đình với những đặc điểm mới, hiện đại và tự do hơn, nhất là từ sau Đổi mới. Các quá trình kinh tế xã hội đi cùng với những chính sách kinh tế, văn hóa xã hội của Việt Nam đang tác động lớn đến quan điểm, lối sống và hành vi ứng xử của cá nhân trong xã hội, trong đó có giá trị gia đình của người dân Việt Nam. Một mặt, những thay đổi về kinh tế, xã hội tác động trực tiếp đến gia đình, đặt ra nhu cầu gia đình cần có những hỗ trợ và bảo vệ tốt hơn. Mặt khác, những biến đổi của gia đình có những tác động quan trọng đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa.

Empty

Bài viết này phân tích một số giá trị nổi bật của gia đình Việt Nam hiện nay dựa trên một số kết quả của đề tài “Các giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam” do tác giả là chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới chủ trì thực hiện năm 2017-2018, với mẫu khảo sát 1759 cá nhân, tuổi từ 16-70, được chọn theo đại diện các vùng, giới tính, nông thôn/đô thị, dân tộc, tôn giáo, mức sống, tình trạng hôn nhân và tuổi, khảo sát bằng phương pháp hỏi trực tiếp giữa điều tra viên và người trả lời ở tất cả các địa bàn khảo sát của 6 tỉnh/thành phố đại diện cho các vùng miền trên cả nước gồm Yên Bái, Hà Nội, Thừa Thiên Huế, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh và Cà Mau. Đồng thời, các số liệu thống kê về hôn nhân, gia đình từ các cuộc Tổng Điều tra Dân số, Nhà ở của Tổng cục Thống kê được phân tích nhằm làm rõ hơn các chiều cạnh giá trị gia đình Việt Nam đương đại.

2. Khái niệm và tiếp cận lý thuyết

Giá trị là điều mong muốn (Kluckhohn, 1951), niềm tin bền vững về một phương thức hành động hay thực tại, có khả năng thống nhất những lợi ích đa dạng khác nhau của hành vi con người, là nhu cầu (Rokeach, 1973), là niềm tin, mong ước, có tính phổ biến, chuẩn mực, có trật tự ưu tiên, và định hướng hành động (Schwartz, 2012).

Giá trị có tính đặc trưng phức tạp, có thể thống nhất và mâu thuẫn theo các xã hội và nền văn hóa, mang tính đa dạng văn hóa, (Schwartz, 1992, 1996; Inglehart, 1997, 2000; Inglehart và Baker, 2000; Rokeach,1973). Có nhiều hệ thống giá trị khác nhau, từ vĩ mô, bao gồm các giá trị phổ quát, giá trị quốc gia, dân tộc, giá trị văn hóa, giá trị đạo đức; đến vi mô, bao gồm giá trị cá nhân, giá trị con người.

Các nghiên cứu trên thế giới gần đây phân chia các giá trị thành hai cặp giá trị cơ bản: (1) giá trị truyền thống và giá trị thế tục-lý trí và (2) giá trị sinh tồn và giá trị phát triển cá nhân (Inglehart và Baker, 2000). Mỗi quốc gia thường nêu bật một số giá trị cốt lõi dựa trên đặc điểm văn hóa xã hội riêng. Giá trị được hình thành, thay đổi theo bối cảnh lịch sử xã hội nhưng cũng có độ trễ nhất định so với lịch sử, vì thế, giá trị mang tính bền vững tương đối.

Bài viết này sử dụng nội hàm giá trị như trên để định nghĩa khái niệm giá trị gia đình. Theo đó, giá trị gia đình là niềm tin, quan điểm, chuẩn mực, điều đáng mong muốn hay không mong muốn, một hệ thống trật tự các ưu tiên định hướng cho suy nghĩ và hành động của con người về các lĩnh vực đời sống hôn nhân, gia đình dưới ảnh hưởng của bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Giá trị gia đình được nhìn nhận theo các loại hình sau:

Một là các giá trị gia đình truyền thống, được phân loại theo quan điểm của các nhà phi nữ quyền học, muốn thúc đẩy giá trị vị gia đình (Beck và Beck-Gernsheim, 2002). Gia đình truyền thống đề cập đến một hình thức gia đình chiếm ưu thế trong giai đoạn tiền xã hội chủ nghĩa trước những năm 1950, coi gia đình là một tổ chức có cùng số phận và bắt buộc các thành viên trong gia đình tham gia vào các hoạt động vì lợi ích chung của gia đình.

Chủ nghĩa gia đình đặt ưu tiên hạnh phúc và sự thịnh vượng của gia đình trên tự do cá nhân và quyền tự trị. Những biểu hiện tiêu biểu của giá trị gia đình truyền thống bao gồm những quan điểm về đề cao giá trị hôn nhân, ý nghĩa quan trọng của gia đình, của con cái, vai trò lao động giới truyền thống, hiếu thảo với cha mẹ, v.v. Giá trị truyền thống của gia đình, cùng với các giá trị văn hóa truyền thống, tồn tại đồng thời trong hiện đại hóa.

Hai là các giá trị gia đình được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật và chính sách. Điều này được xem xét trong bối cảnh có những thay đổi đương đại trong luật pháp hôn nhân, gia đình và những khả năng những thay đổi đó giải thích cho việc thay đổi các giá trị gia đình truyền thống (Beck và Beck-Gernsheim, 2002). Ví dụ, Luật Hôn nhân và gia đình 1959 chính thức xóa bỏ hôn nhân sắp đặt, chế độ đa thê và hình thành giá trị hôn nhân mới, là hôn nhân dựa trên tình yêu và hôn nhân một vợ một chồng.

Ba là các giá trị phản ánh những thay đổi gần đây về gia đình trong hệ tư tưởng chính trị như một cách thức thể hiện mối quan hệ giữa các cá nhân, quốc gia và dân tộc trong bối cảnh hiện nay (Beck và Beck-Gernsheim, 2002) (giá trị cộng đồng). Theo đó, mối quan hệ của gia đình với cộng đồng, với quốc gia, dân tộc về tình yêu quê hương, đất nước được phân tích qua các giá trị cụ thể của mối quan hệ này như mức độ sẵn sàng hi sinh lợi ích gia đình cho lợi ích chung.

Bốn là các giá trị phản ảnh sự chuyển đổi từ hiện đại sang hậu hiện đại (Beck và Beck-Gernsheim, 2002). Trong quá trình hiện đại hóa và hội nhập, một số giá trị mới của gia đình được hình thành. Chẳng hạn, do sự tham gia rộng rãi của phụ nữ vào thị trường lao động và việc làm, các giá trị gia đình truyền thống bị thách thức và cần có một cách tân và tái cấu trúc thể chế để cân bằng giữa công việc và việc nhà.

Công việc chăm sóc hiện nay chủ yếu do gia đình thực hiện nên những cải cách về thể chế cần bao gồm hai khía cạnh. Một là coi việc nhà và việc chăm sóc là công việc có lương. Hai là tiêu chuẩn hóa những công việc vốn được cho là không tiêu chuẩn này, để cho phép nhận được những quyền lợi của người lao động như bảo hiểm hay lương hưu, v.v. Một số hiện tượng hôn nhân gia đình vốn không được chấp nhận trong truyền thống, nhưng đã dần được chấp nhận về mặt xã hội, như làm mẹ đơn thân, hôn nhân đồng tính, chung sống không kết hôn, gia đình độc thân, v.v.

Giá trị gia đình Việt Nam được xem xét trên các lĩnh vực giá trị của hôn nhân và gia đình (ý nghĩa của hôn nhân, thứ tự ưu tiên hôn nhân, gia đình trong cuộc sống; mức phổ biến của hôn nhân; sự sẵn sàng kết hôn); giá trị kinh tế của gia đình (việc làm, sự giàu có, tài sản, v.v.); giá trị con cái (số con, giới tính của con, ý nghĩa của việc có con, đạo hiếu, v.v.); giá trị đạo đức, tâm lý, tình cảm (giá trị tình yêu, trinh tiết, sự chung thủy; sự quan tâm, tôn trọng, trách nhiệm và cam kết); giá trị của các mối quan hệ vợ chồng, người cao tuổi và con cháu, đặt trong bối cảnh của những thay đổi về chính sách, văn hóa và hội nhập quốc tế.

3. Những giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam từ kết quả nghiên cứu

Hôn nhân, gia đình có ý nghĩa quan trọng

Bất chấp những cảnh báo gần đây về nguy cơ giải thể, tan rã của hôn nhân, hôn nhân vẫn là một giá trị quan trọng ở Việt Nam hiện nay. Phần lớn những người được hỏi vẫn khẳng định tầm quan trọng của hôn nhân, theo đó, thanh niên đến tuổi trưởng thành nhất thiết cần lập gia đình. Tỷ lệ người đồng ý với việc sống độc thân thấp hơn nhiều so với số người không đồng ý (Bảng 1). Gia đình tiếp tục là ưu tiên hàng đầu.

Bảng 1. Mức độ đồng ý với một số nhận định về ý nghĩa của hôn nhân (%)

 (N=1759)

 

Hoàn toàn không đồng ý

Không đồng ý

Nửa đồng ý nửa không

Đồng ý

Rất đồng ý

Thanh niên đến tuổi trưởng thành nhất thiết cần lập gia đình

4,1

25,1

24,6

35,4

10,8

Tôi muốn kết hôn và có gia đình trong tương lai

7,0

6,8

5,7

42,4

38,1

Tôi thích độc thân và không có ý định kết hôn

20,9

48,5

17,3

10,3

3,0

Nguồn: Trần Thị Minh Thi, 2021a.

Thực tế số liệu Tổng Điều tra Dân số nhà ở 2019 khẳng định thêm giá trị của hôn nhân, gia đình của người dân Việt Nam. Tuổi kết hôn lần đầu của dân số Việt Nam khá trẻ (25,2 tuổi), trong đó, dân số nông thôn kết hôn sớm hơn đô thị, nữ kết hôn sớm hơn nam (Bảng 2). Điều đáng lưu ý là, tuổi kết hôn lần đầu đang có xu hướng tăng lên trong bốn thập niên qua, cho thấy chủ nghĩa cá nhân tăng lên. Vì kết hôn là một trong những sự kiện quan trọng hình thành gia đình nên việc cần quan tâm đến đặc điểm này trong việc giữ gìn sự bền vững của thiết chế gia đình.

Bảng 2. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của Việt Nam, 1989-2019

 

1989

1999

2009

2019

Chung

23,8

24,1

24,5

25,2

Nông thôn

     

24,5

Đô thị

     

26,4

Nam

24,4

25,4

26,2

27,2

Nữ

23,2

22,8

22,8

23,1

Nguồn: 1) Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019; 2) Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009: Cấu tuổi tuổi - giới tính và tình trạng hôn nhân của dân số Việt Nam (Tổng cục Thống kê, 2011).

Khi bắt đầu kết hôn, thông thường các cá nhân sẽ không tính đến việc ly hôn. Thực tế, ly hôn có xu hướng giảm nhẹ trong một vài thập niên gần đây ở phương Tây, trong khi ly hôn ở Việt Nam vẫn tăng lên, tương tự các quốc gia châu Á, do ở những giai đoạn khác nhau của hiện đại hoá và văn hoá. Ly hôn ở Việt Nam cho thấy xu hướng đang tăng lên cả về số lượng và tỷ lệ. Năm 2000, tỷ lệ ly hôn thô là 0,66 và tăng lên 2,22 vào năm 2017. Tỷ lệ ly hôn chung đã tăng từ 0,97 năm 2000 lên 2,69 vào năm 2017 (Bảng 3). Thực tế này đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm về hệ quả kinh tế, văn hoá, xã hội của ly hôn, cũng như các loại hình gia đình mới hậu ly hôn.

Bảng 3. Mức độ ly hôn ở Việt Nam giai đoạn 2000-2017

Năm

Số cuộc ly hôn*

Dân số**

Tỷ lệ ly hôn thô

Dân số 15+***

Tỷ lệ ly hôn chung

2000

51.361

77.630.900

0,66

53.148.971

0,97

2001

54.226

78.685.000

0,69

53.872.252

1,01

2002

56.487

79.727.000

0,71

55.405.348

1,02

2003

58.708

80.902.000

0,73

56.935.391

1,03

2004

65.336

82.031.000

0,80

58.613.453

1,11

2005

65.929

82.393.500

0,80

60.065.667

1,10

2006

67.058

83.313.000

0,80

61.279.802

1,09

2007

69.646

84.221.100

0,83

62.618.033

1,11

2008

76.490

85.122.300

0,90

63.702.050

1,20

2009

90.092

86.025.000

1,05

64.948.875

1,39

2010

97.627

86.932.500

1,12

65.311.641

1,49

2011

110.677

87.860.400

1,26

66.542.699

1,66

2012

127.130

88.809.300

1,43

67.389.982

1,89

2013

137.842

89.759.300

1,54

67.790.723

2,03

2014

150.600

90.728.900

1,66

68.819.816

2,19

2015

166.179

91.709.800

1,81

69.521.305

2,39

2016

189.605

92.692.200

2,05

70.425.919

2,69

2017

208.419

93.671.600

2,22

71.282.961

2,92

Nguồn: Trần Thị Minh Thi, 2021b. 

Chọn lựa bạn đời ưu tiên các tiêu chuẩn mang tính cá nhân

Các tiêu chuẩn mang tính cá nhân như tình yêu, vốn nhân lực (học vấn, sức khỏe, nghề nghiệp), phẩm chất cá nhân (tính cách, ngoại hình) được cho là quan trọng hơn các tiêu chuẩn về điều kiện kinh tế.

Những giá trị mang tính tập thể như gia đình môn đăng hộ đối, nội hôn (cùng địa phương/dân tộc) không còn được coi trọng như trước. Điều này nói lên rằng những giá trị về tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời đã có sự chuyển đổi rõ nét từ giá trị truyền thống sang các giá trị hiện đại (Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1. Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời hiện nay (N=1759)1

gdg bd1 - 10.9.2021

Nguồn: Trần Thị Minh Thi, 2021a.

Mức độ chấp nhận cởi mở dần với một số hiện tượng hôn nhân gia đình mới

Có khoảng một nửa (49,6%) người trả lời chấp nhận hiện tượng làm mẹ đơn thân, thể hiện sự biến đổi trong nhận thức và sự nhân văn trong bảo vệ quyền của phụ nữ. Các gia đình chấp nhận thấp với hiện tượng sống độc thân (38,5%) nhưng mức chấp nhận tăng dần ở nhóm mang đặc điểm hiện đại và phụ nữ.

Gia đình Việt Nam cũng có mức chấp nhận thấp, rất dè dặt với kết hôn đồng giới (27,7%), và thấp hơn ở nhóm nam giới, cao tuổi, học vấn thấp, dân tộc thiểu số. Chung sống không kết hôn được nhìn nhận cởi mở hơn với 67,5% đồng ý. Các hình thức hôn nhân, gia đình này thường rất hiếm hoặc không có trong truyền thống nhưng lại khá phổ biến trong các xã hội đang chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở Việt Nam, một bộ phận người dân, đặc biệt là người dân tộc Kinh, trẻ tuổi, học vấn cao, ở thành thị có sự chấp nhận những kiểu loại gia đình mới cao hơn.

Bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị hiện đại tiến bộ

Các giá trị quan trọng trong đời sống hôn nhân, gia đình được chọn lựa và xếp trật tự ưu tiên bao gồm chung thủy, yêu thương nhau, bình đẳng, trách nhiệm, chia sẻ, hòa hợp tình dục, có thu nhập, và sống riêng. Chung thủy là điều được mong đợi nhất, đặc biệt là ở nhóm nam giới, dân tộc thiểu số. Gia đình Việt Nam đánh giá cao tầm quan trọng của tình yêu thương trong gia đình, nhưng có khác biệt với các nhóm xã hội.

Dường như, các nhóm mang đặc điểm hiện đại ít đánh giá tầm quan trọng của tình yêu thương, vì điểm trung bình thấp hơn ở nhóm dân tộc Kinh, sống ở đô thị, hay ở khu vực kinh tế phát triển như Đông Nam Bộ. Nhóm mang đặc điểm hiện đại hơn cũng cho thấy mức sinh thấp hơn, tuổi kết hôn cao hơn (Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương, 2019), ly hôn cao hơn (Trần Thị Minh Thi, 2021b). Điều này đặt ra yêu cầu cần quan tâm trong quá trình xây dựng, vun đắp giá trị gia đình ở các nhóm xã hội chịu ảnh hưởng khác nhau của hiện đại hóa và tập tục văn hóa.

Đồng thời, các gia đình nhận thức cao về tầm quan trọng của trách nhiệm, bình đẳng, chia sẻ trong đời sống gia đình, nhất là nhóm gia đình mang nhiều đặc điểm hiện đại như sống ở đô thị, học vấn cao, mức sống cao, v.v. (Bảng 4).

Bảng 4. Giá trị trung bình về tầm quan trọng của các giá trị đạo đức, tâm lý, tình cảm trong hôn nhân, gia đình theo đặc trưng người trả lời (N=1789)

 

Tiêu chí

Chung

Có con

Sống

Tình yêu

Hòa hợp

Trách nhiệm, Có thu

Bình

   

thủy

 

riêng

thương

tình dục

chia sẻ

nhập

đẳng

 

Chung

4,55

4,24

3,01

4,40

3,96

4,08

3,91

4,30

Giới tính Nam

4,59***

4,25

2,94**

4,42

4,01***

4,07

3,81***

4,28

 

Nữ

4,51***

4,22

3,06**

4,38

3,91***

4,09

4,01***

4,32

Năm

Trước 1960

4,59

4,33***

3,05

4,44

4,06***

4,13***

3,91

4,30***

sinh

1960-1975

4,52

4,28***

3,06

4,35

4,03***

4,09***

3,87

4,23***

 
 

1976-1985

4,54

4,27***

3,00

4,43

3,98***

4,15***

3,95

4,33***

 

1986 trở đi

4,57

4,11***

2,92

4,40

3,81***

3,99***

3,92

4,36***

Dân tộc

Kinh

4,53***

4,23

3,02

4,38***

3,95*

4,07*

3,90**

4,29*

 

DTTS

4,66***

4,31

2,92

4,54***

4,05*

4,17*

4,04**

4,39*

Học vấn

=< Tiểu học

4,53

4,20**

2,96

4,42

3,85**

4,01**

3,82

4,21***

 

THCS

4,51

4,28**

2,95

4,34

3,95**

4,05**

3,90

4,24***

 

THPT

4,60

4,19**

3,00

4,44

3,94**

4,10**

3,93

4,35***

 

>= THPT

4,53

4,29**

3,11

4,40

4,04**

4,15**

3,97

4,39***

Cư trú

Nông thôn

4,55

4,27**

2,90***

4,43***

3,91***

4,02***

3,84***

4,26***

 

Thành thị

4,55

4,19**

3,15***

4,35***

4,01***

4,15***

4,01***

4,35***

Vùng

TD&MNPB

4,62***

4,35***

2,74***

4,57***

4,04***

4,10***

3,82***

4,29***

 

ĐBSH

4,46***

4,33***

3,08***

4,34***

4,08***

4,04***

3,97***

4,25***

 

BTB&DHMT 4,54***

4,22***

3,14***

4,38***

3,91***

3,98***

3,91***

4,23***

 

Tây Nguyên

4,58***

4,33***

3,04***

4,55***

4,02***

4,15***

4,07***

4,36***

 

ĐNB

4,63***

4,10***

3,04***

4,28***

3,95***

4,26***

4,05***

4,45***

 

ĐBSCL

4,54***

4,01***

2,73***

4,39***

3,66***

4,05***

3,56

4,36***

Mức ý nghĩa thống kê: *p < 0,01, ** p< 0,01, *** p<0,001.

Nguồn: Trần Thị Minh Thi, 2021a.

Mô hình cả vợ và chồng đóng góp kinh tế gia đình là phổ biến

Đa số các gia đình cho rằng điều kiện kinh tế quyết định hạnh phúc gia đình (gần 60%). Vì thế, việc làm của người dân Việt Nam hiện nay có tỷ lệ rất cao. Lao động nữ chiếm 47,3%; nam chiếm 52,7% tổng số lao động có việc làm năm 2019. Tỷ số việc làm trên dân số năm 2019 là 80,3% với nam giới và 70,3% với nữ giới, thành thị thấp hơn so với nông thôn (67,7% so với 79,5%) (Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương, 2019). Tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động cao, chỉ thấp hơn một chút so với nam giới.

Trong kinh tế, nam giới được coi là trụ cột trong gia đình. Quan niệm về vai trò trụ cột kinh tế trong gia đình là người chồng cao gấp khoảng 10 lần quan niệm trụ cột nên là người vợ, cho thấy kỳ vọng xã hội đặt gánh nặng và trách nhiệm kinh tế lên người chồng cao hơn nhiều lần so với người vợ và sự dai dẳng của quan niệm truyền thống về phân công lao động theo giới. Một quan niệm mang tính ngược lại với vai trò giới truyền thống, như chồng chỉ ở nhà làm nội trợ chỉ có khoảng gần ¼ số người ủng hộ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, người vợ có đóng góp quan trọng vào kinh tế gia đình (Bảng 5).

Bảng 5. Quan niệm và thực tế về người trụ cột kinh tế trong gia đình (%)

(N=1693)

Tiêu chí

Người

Người

Cả

Người kiếm

Người

 

chồng

vợ

hai

được tiền

khác

Quan niệm về người là trụ cột kinh tế trong gia đình

44,4

4,6

40,5

6,9

3,6

Thực tế người có thu nhập cao nhất trong gia đình

34,7

15,5

20,2

n/a

29,6

Nguồn: Trần Thị Minh Thi, 2021a.

Điều này đặt ra vấn đề bình đẳng giới với cả phụ nữ và nam giới. Với nam giới, việc đặt kỳ vọng gánh vác vai trò trụ cột kinh tế có thể là một gánh nặng tâm lý đối với nam giới bởi vì không phải người nam giới nào cũng có đầy đủ khả năng đảm đương được những trách nhiệm đó, nhất là trong bối cảnh phụ nữ tham gia rộng rãi vào thị trường lao động, cạnh tranh với nam giới. Với phụ nữ, sự khác nhau giữa kỳ vọng và thực tế đóng góp kinh tế cho thấy vấn đề về giới thậm chí còn lớn hơn.

Thứ nhất, xã hội dường như đánh giá vai trò kinh tế trong gia đình của phụ nữ thấp hơn thực tế.

Thứ hai, phụ nữ được mong đợi và thực tế thực hiện vai trò kép ở cả gia đình và xã hội. Nghiên cứu cho thấy những giá trị phân công lao động mang dấu ấn gia trưởng đặt gánh nặng kép lên người vợ còn khá đậm nét. Một mặt, người vợ được mong đợi gánh vác cùng người chồng trong tạo thu nhập cho gia đình và thừa nhận ý nghĩa của việc làm cho phụ nữ đối với bình đẳng giới trong gia đình. Mặc dù đại đa số gia đình đồng ý rằng “làm nội trợ cũng đóng góp kinh tế tương tự như đi làm có thu nhập” nhưng sự chấp nhận này dường như mới trên bề nổi vì thu nhập vẫn được đại đa số coi là một tiêu chí mang lại sự bình đẳng hơn cho phụ nữ.

Empty

Mặt khác, việc làm được cho là có ý nghĩa, quan trọng hơn đối với người chồng. Ví dụ, các gia đình ủng hộ mô hình vợ chồng đều đi làm nhưng nhấn mạnh hơn vai trò chăm sóc gia đình của phụ nữ, nhất là khi đã có con. Trong nghề nghiệp, các gia đình cũng có xu hướng cho rằng người chồng nên được tạo điều kiện hơn người vợ (Bảng 6), nhất là ở nhóm nhân khẩu xã hội thuộc nhóm ít có đặc điểm hiện đại như lớn tuổi, có trình độ học vấn thấp, mức sống thấp, là người dân tộc thiểu số, cư trú ở nông thôn, vùng kinh tế xã hội phát triển chậm hơn, đặt ra những vấn đề cần quan tâm về bình đẳng giới ở những khu vực còn lưu giữ đậm nét dấu ấn của gia trưởng, phong kiến.

Khi phụ nữ vừa đi làm đóng góp kinh tế cho gia đình, vừa đảm nhiệm trách nhiệm chính trong nội trợ chăm sóc, vừa phải vượt qua được các rào cản về định kiến giới trong công việc, sự nghiệp, trong khi các dịch vụ xã hội hỗ trợ cho gia đình còn hạn chế, thì áp lực đối với người phụ nữ là rất lớn.

Một số hệ quả xã hội có thể diễn ra, chẳng hạn như phụ nữ sẽ kết hôn muộn và sinh con ít hơn. Xu hướng sinh ít con hơn, kết hôn muộn hơn, hoặc không kết hôn, là xu hướng của quá trình hiện đại hóa. Sự pha trộn giá trị truyền thống và hiện đại cũng như các kỳ vọng xã hội đang đặt ra những gánh nặng kép cả về văn hóa và kinh tế đối với phụ nữ, đòi hỏi cần có những giải pháp tiếp tục thay đổi định kiến giới và những chính sách, dịch vụ hỗ trợ phụ nữ cân bằng công việc và gia đình.

Bảng 6. Giá trị trung bình về giá trị truyền thống về nghề nghiệp và việc làm theo đặc trưng của người trả lời

Đặc trưng

Cả chồng và vợ đều phải đóng góp thu nhập cho gia Đình

Phụ nữ có việc làm sẽ có vị trí bình đẳng trong gia đình

Có việc làm là tốt nhưng hầu hết phụ nữ cần gia đình hơn

Người chồng nên được tạo điều kiện trong nghề nghiệp hơn người vợ

Khi có con, phụ nữ nên lui về chăm sóc gia đình hơn

Giới

Nam

3,5

3,6

3,3

4,0

3,3

tính

Nữ

3,7

3,6

3,3

4,0

3,2

Dân tộc

Kinh

3,6

3,6

3,3

4,0

3,2

 

Dân tộc thiểu số

3,5

3,7

3,2

4,0

3,4

Tuổi

Trước 1960

3,9

3,6

3,5

4,1

3,4

 

1960 – 1975

3,7

3,7

3,4

4,1

3,4

 

1976 – 1985

3,6

3,6

3,3

4,1

3,2

 

1986 trở đi

3,4

3,5

3,1

3,9

3,0

Học vấn Tiểu học trở xuống

3,7

3,8

3,6

4,1

3,7

 

THCS

3,7

3,7

3,5

4,0

3,6

 

THPT

3,6

3,5

3,1

4,0

3,1

 

Trên THPT

3,5

3,4

3,2

4,0

2,7

Khu

Nông thôn

3,5

3,6

3,4

4,0

3,4

vực

Thành thị

3,7

3,5

3,2

4,1

3,0

Nguồn: Trần Thị Minh Thi, 2021a.

Con cái có ý nghĩa quan trọng nhưng giá trị con cái đang biến đổi

Con cái tiếp tục là một giá trị quan trọng trong hôn nhân nhưng người Việt Nam hiện nay không mong muốn có nhiều con, nhất là nhóm mang nhiều đặc điểm hiện đại. Nhóm mong muốn có nhiều con là dân tộc thiểu số, nông thôn, học vấn thấp và ở khu vực chịu ảnh hưởng mạnh nhất của Nho giáo là đồng bằng sông Hồng.

Nhóm lớn tuổi thể hiện mức đánh giá cao vai trò quan trọng của con cái trong duy trì bền vững hôn nhân và không chấp nhận không có con (Bảng 7). Thực tế cho thấy, tổng tỷ suất sinh của người dân Việt Nam trong 20 năm qua khá ổn định quanh mức sinh thay thế, nhưng một số khu vực đã có mức sinh thấp (Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương, 2019). Những người có đông con thường sinh trước năm 1976, có trình độ trung học cơ sở trở xuống, mức sống không khá giả, cư trú ở nông thôn và tập trung ở một số vùng miền như đồng bằng sông Cửu Long, miền núi và trung du phía Bắc và miền Trung (Trần Thị Minh Thi, 2021a).

Bảng 7. Một số quan điểm của gia đình Việt Nam về con cái

Giới tính

Có càng nhiều con càng tốt

Nếu vợ không sinh được con, chồng có thể có con ở bên ngoài

Không có con cuộc đời chẳng có ý nghĩa gì

Nam

2,32

2,33

3,36

Nữ

2,39

2,36

3,43

© CƠ QUAN CHỦ QUẢN: VIỆN NGHIÊN CỨU GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN. 

Giấy phép hoạt động báo chí điện tử số 292/GP-BTTTT ngày 23/6/2017 do Bộ Thông tin- Truyền thông cấp. Tên miền: giadinhmoi.vn/

Tổng biên tập: Đặng Thị Viện. Phó Tổng biên tập: Phạm Thanh, Trần Trọng An. Tổng TKTS: Nguyễn Quyết. 

Tòa soạn: Khu Đô thị mới Văn Quán, phường Phúc La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Việt Nam. 

Văn phòng làm việc: Nhà C3 làng quốc tế Thăng Long, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.  

Điện thoại: 0868-186-999, email: [email protected]

Thông tin toà soạn | Liên hệ | RSSBÁO GIÁ QUẢNG CÁO Bất động sản- Tài chính

Năm sinh

**

***

***

Trước 1960

2,50

2,57

3,62

1960-1975

2,39

2,41

3,59

1976-1985

2,34

2,37

3,42

1986-nay

2,27

2,15

3,07

Trình độ học vấn

**

 

***

Tiểu học trở xuống

2,52

2,44

3,63

THCS

2,37

2,44

3,65

PTTH

2,27

2,29

3,27

Trên PTTH

2,42

2,27

3,16

Dân tộc

 

**

***

Kinh

2,38

2,38

3,36

DTTS

2,23

2,13

3,69

Nơi cư trú

   

**

Nông thôn

2,35

2,38

3,47

Thành thị

2,37

2,30

3,30

Vùng kinh tế - xã hội

***

***

***

MNTDPB

2,19

2,55

3,67

ĐBSH