GS.TS Đặng Cảnh Khanh khẳng định: Cuộc sống gắn liền với những cảm thụ về thiên nhiên, cỏ cây hoa lá đã trở thành một bản sắc, một nhân cách và giá trị sống lâu đời của người Việt.
Sáng nay 23/4, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và Sở NN&PTNT Hà Nội phối hợp cùng 1 số đơn vị tổ chức hội thảo "Phát triển hoa cây cảnh - Ngành sinh tế sinh thái trong xây dựng Nông thôn mới và đô thị thông minh".
Tại hội thảo, GS.TS Đặng Cảnh Khanh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển đã có đánh giá về giá trị của hoa cây cảnh trong đời sống tinh thần của người Việt với tham luận "Hoa cây cảnh - giá trị truyền thống và hiện đại".
Gia Đình Mới xin phép đăng tải một phần tham luận này:
Việt Nam ta từ lâu đã có tiếng là một nước văn hiến, đối diện với nước Trung Hoa. Trong khoảng không gian giao lưu, cộng cảm và tiếp biến về văn hóa thì văn minh của ta có liên quan tới thiên nhiên và môi trường đã có ảnh hưởng không ít đến văn minh Trung Hoa, tạo nên những sắc thái riêng biệt cho văn minh vùng miền khu vực phía đông Châu Á trong văn minh nhân loại.
Cuộc sống gắn liền với những cảm thụ về thiên nhiên, cỏ cây hoa lá đã trở thành một bản sắc, một nhân cách và giá trị sống lâu đời của người Việt.
Người Việt ta sống trong vùng đất đầy nguồn lợi vật chất, tinh thần, nhưng cũng đầy cam go, trắc trở, hiểm nguy. Mở thử một cuốn biên niên sử nước ta, năm nào mà chúng ta chẳng gặp, chẳng đọc được nào nắng gió, khô hạn, nào giông bão, lụt lội...
Đấu tranh giành giật với thiên nhiên, hòa đắm vào thiên nhiên, hoán cải thiên nhiên, tìm thấy từ thiên nhiên khắc nghiệt niềm hoan hỷ, hạnh phúc của lao động sáng tạo, của gia đình và cộng đồng.
Người Việt ta do vậy từ lâu đã biết dành mọi cảm xúc cho thiên nhiên, yêu thiên nhiên, yêu những sản vật mà thiên nhiên dành tặng cho cuộc sống của mình, tạo nên những giá trị văn hóa quý giá liên quan đến cảm thụ hoa và cây cảnh.
Người Việt xưa coi hạnh phúc không chỉ là sự sang giàu, là gấm vóc lụa là chất đầy trong rương, trong hòm nhà mình mà là sự cân bằng giữa việc sống no đủ với sống ấm áp trong quan hệ gia đình, hàng họ, xóm giềng, cộng đồng... Bởi lẽ đó mà trong đời sống người ta không chỉ câu có đủ gạo thóc, rau quả, chữ nghĩa, sách vở mà còn luôn cần có cả vườn tược xanh tốt, chim hót quanh nhà, hoa cỏ nhuận sắc... Chính điều đó đã tạo nên những giá trị về hạnh phúc riêng.
Mục tiêu hạnh phúc của một đời người là vậy, cho nên chúng ta có thể hiểu rằng tại sao hoa lá cây cảnh từ lâu đã gắn bó với bao nhiêu thế hệ gia đình người Việt ta, từ gia đình cao sang, khá giả cho đến gia đình nghèo túng, khó khăn...
Thiên nhiên thấm đậm vào lòng người. Vào thế kỷ XVIII, chốn Thăng Long đâu đâu cũng nuôi sinh vật cảnh, trồng cây đẹp, hoa thơm. Sách vở thời kỳ đó đã miêu tả rất rõ không khí sống gần gũi thiên nhiên, làm non bộ, trồng hoa, chơi cây cảnh của cư dân Thăng Long, cảnh chúa Trịnh chuyển cây to, đá đẹp từ bên kia sông Hồng về Thăng Long, cảnh thuyền rồng đi du ngoạn Tây Hồ...
Chơi hoa và chơi cây xưa cũng đã có cả những quy tắc thẩm mỹ, những chuẩn ước mà sự tinh tế của nó đòi hỏi phải có một trình độ am hiểu và cảm thụ rất cao thì mới cảm nhận được. Đây là điều mà không phải người nào cũng có.
Chúng ta hãy xem cụ Phạm Đình Hổ diễn tả về cách chơi hoa thanh cao và tinh tế của một người bạn ông ở Thăng Long khi đó như sau: “Khoảng năm Ất mão, Bính Thìn (1795-1796) ta có vào chơi một nhà anh em bạn, khi vào đến cửa, ngửi thấy một mùi thơm sực nức hình như hương hoa lan, mà lại có phần thanh hơn, vẫn không ngờ là thứ lan ngọc quế. Đến khi vào nhà khách, mới thấy thứ lan ấy vừa nở, mà trông vào trong cái chậu vỡ, đất sỏi, để ở góc hè, cành lá lơ thơ, dài chỉ độ năm sáu tấc, hoa nhỏ mà cánh mỏng, sắc rất đạm nhưng hương thơm ngát. Ta vừa vừa được thưởng thức mùi hương thiên nhiên ấy, liền khen là khéo trồng thì chủ nhân bẽn lẽn nói rằng không có lúc nào bón tưới cả".
Ở đây ta nên chú ý sự tinh tế trong cách chơi hoa của người Thăng Long khi đó, hoa quý nhưng lại chỉ trồng trong “cái chậu vỡ, đất sỏi, để đầu nhà", đồng thời cũng chỉ cần "hoa nhỏ mà cánh mỏng, sắc rất đạm nhưng hương thơm ngát". Cách chơi sâu lắng này khiến ta nghĩ đến truyền thuyết về công chúa Thiếu Hoa con gái của vua Hùng, đến một lễ hội đầy hoa thơm, bướm lạ, muôn màu muôn vẻ nhưng lại chỉ quan tâm đến một con bướm nâu buồn bã nơi góc vườn, để rồi sau này chính nàng bướm nâu bình dị ấy lại nhả ra những sợi tơ vàng óng dệt nên trăm nghìn mảnh lụa quý.
Phạm Đình Hổ cũng lên tiếng phê phán những kẻ hợm mình, không hiểu biết gì về sự tinh tế trong chơi hoa: “Ta mới hay người đời chơi lan chỉ biết thưởng thức bằng mắt chứ không biết thưởng thức bằng mũi, chỉ biết được cái hình của hoa, chứ không biết được cái thân của hoa. Chậu sành nào phải nơi sơn cốc, phường phố nào phải chốn thôn quê, thế mà hoa lan trồng được ở nơi u tĩnh thì đã phát ra kỳ hương như thế".
Tình yêu với thiên nhiên chính là tình yêu với con người
Tình yêu với thiên nhiên, suy cho cùng chính là tình yêu với con người. Bởi vì dẫu thế nào thì cuối cùng, con người vẫn là trung tâm của cảnh quan môi trường. Hoa, cây cảnh chỉ có giá trị như một tài sản văn hóa khi nó hiện diện trong nhận thức, hành vi và cuộc sống của con người bởi vì “người buồn cảnh có vui đầu bao giờ".
Nhà thơ nổi tiếng đời Lê là Ngô Thì Sĩ cũng đã từng viết :
Càn khôn nguyên tự xảo
Nhân cảnh chính tương tu
(Xếp đặt khéo là do trời đất
Nhưng điểm tô cho nó đẹp chính là nhờ có con người)
Đây chính là nguyên tắc cơ bản của người xưa trong thú chơi hoa, cây cảnh. Trong kỳ thi Hội năm 1508, Nguyễn Giản Thanh, một trong những vị trạng nguyên trẻ tuổi vừa tài năng vừa hào hoa, người mà dân gian gọi bằng cái tên rất dân dã là Trạng Me đã viết “Phụng thành xuân sắc phú", miêu tả rất rõ về cuộc sống xã hội Thăng Long băng một thứ ngôn ngữ thật sống động.
Con người Thăng Long trong nét bút của Nguyễn Giản Thanh thật hồn nhiên, trong sáng, nhưng cũng thật hào hoa, thanh lịch giữa khung cảnh đầy xuân sắc tươi trẻ của một kinh đô phồn thịnh với những đền đài tráng lệ, nguy nga.
Chợ Hòe đầm ấm
Phổ Ngọc tần vần
Trai lanh lẹ đá cầu vén áo
Gái éo le rủ yếm dôi quần
Khách Trường An cưỡi ngựa xem hoa, rợp đường tử mạch
Chàng công tử ngựa xe trương tán, rạng mực thanh vân
Nếu không có một tình yêu thiết tha, cộng với một sự lãng mạn tinh tế với những cỏ cây hoa lá và con người trong chốn đô hội Thăng Long, thì rõ ràng không thể viết được những câu thơ tuyệt tác để tả đám “trai thanh nữ tú" của Thăng Long như “trai lanh le đá cầu vén áo, gái éo le rủ yếm dôi quần"...
Có lẽ nhờ có sự miêu tả tươi tắn, trẻ trung nói trên mà dường như cho đến nay chúng ta khó tìm thấy một tác phẩm cổ xưa nào sánh được với "Phụng thành xuân sắc phủ" về việc diễn tả đầy đủ sự hồn nhiên của trai gái Thăng Long với cảnh quan hoa lá.
Đến Phạm Huy Lượng trong “Tụng Tây Hồ Phú" thì cùng với vẻ hồn nhiên trong lao động của tuổi trẻ, chúng ta cũng cảm nhận được những nét buồn sâu lắng của thiên nhiên:
Bến giặt tơ, người vốc nước còn khua, gương thiềm đựng trong tay lóng lánh
Vườn hái nhị người giày sương hãy sớm, túi xạ rơi dưới gót thơm tho.
Tình yêu và cảm xúc của tuổi trẻ Thăng Long xưa thường được dựa trên một nên tảng chuẩn mực được gọi là “Thư hoa nhân ái", lấy sách vở và cỏ cây hoa lá, lấy tình yêu thương với con người làm nguồn cảm hứng và say mê.
Đọc Phạm Đình Hổ tới đoạn trồng hoa trên chậu vỡ tôi mới hiểu được tại sao khi đi cùng với một bậc trí giả cao niên người Hà Nội đến chọn mua hoa, tôi thấy ông mua nguyên cả bó, trả tiền xong nhưng lại chỉ lặng lẽ chọn lấy ba bông đẹp, mảnh mai và rất nhỏ, nhờ bỏ vào một tấm giấy bóng kính trong suốt. Còn lại, cả hoa và đống giấy màu lòe loẹt cùng những sợi dây kim tuyến óng ánh, ông bỏ lại không thương tiếc... Âu cũng là cái cách để cảm nhận được điều mà Phạm Đình Hổ gọi “cái thần của hoa" vậy.
Ngày nay, trong nhịp độ phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện đại, đời sống văn hóa tinh thần của xã hội được nâng cao, những giá trị truyền thống của dân tộc trong việc sống gắn kết với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá đã khiến tâm hồn con người ngày càng trở nên thanh cao, khoáng đạt hơn, con người ngày càng nhân ái và hạnh phúc hơn.
Nghề trồng hoa và cây cảnh đang được trả lại với những giá trị đích thực của nó cả về mặt vật chất và tinh thần. Chính sự phát triển của hoa và cây cảnh như một ngành kinh tế sinh thái đã khiến cho môi trường của xã hội hiện đại sẽ không chỉ là những khối sắt thép, xi măng khuôn cứng, mà còn làm cho con người ngày càng trở lại với bản chất tự nhiên vốn có của nó, thân thiện, nhân văn và thanh cao hơn.
Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển (TaDRI) là một tổ chức khoa học công nghệ phi chính phủ, phi lợi nhuận được thành lập theo quyết định số 1364/QĐ - LHH của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam ngày 11/10/2006 và giấy phép hoạt động khoa học công nghệ số A-571 do Bộ Khoa học và Công nghệ cấp ngày 7/11/2006.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt của Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển là những chuyên gia đã từng hợp tác, làm việc trong nhiều dự án nghiên cứu và phát triển hơn 10 năm qua bao gồm các giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, những nhà khoa học có uy tín, kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo trong và ngoài nước có khả năng chuyên môn, nhiệt huyết, sáng tạo và năng động trong công tác nghiên cứu và phát triển.