Với việc tiếp nhận kinh nghiệm và thành tựu mới trong nội luật hóa các cam kết quốc tế về trao quyền cho phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới, nhằm hướng đến mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội, xây dựng hệ thống chính sách xã hội bao trùm và đáp ứng giới, thời gian tới cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Thứ nhất, trong lĩnh vực lao động, việc làm cần đảm bảo người lao động có việc làm bền vững, phù hợp và có thu nhập bảo đảm tái sản xuất sức lao động và nuôi sống gia đình. Tăng cường chính sách, chương trình hỗ trợ tạo việc làm cho lao động. Hiện đại hoá kết nối cung - cầu lao động, dự báo thị trường lao động (TTLĐ) và quản lí nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở dữ liệu lao động, việc làm có phân tách theo giới tính.
- Thứ hai, cần thay đổi cách tiếp cận về lồng ghép giới trong các chương trình, chính sách giảm nghèo, đồng thời, cụ thể hóa các cơ chế và qui định, bao gồm cả phân bổ ngân sách và nguồn lực đầy đủ để thực hiện lồng ghép giới trong thực tế.
- Thứ ba, phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, chú trọng sửa đổi, bổ sung chính sách BHXH tự nguyện dựa trên nguyên tắc bảo đảm bình đẳng giới để khuyến khích lao động nữ tham gia. Hoàn thiện cơ chế quản lí, đầu tư Quĩ bảo hiểm xã hội an toàn, hiệu quả, bền vững. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện chính sách, phát huy đầy đủ các chức năng của BHTN, thực hiện các giải pháp đồng bộ hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất kinh doanh và người lao động giảm thiểu thất nghiệp.
- Thứ tư, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về trợ giúp xã hội (TGXH). Phát triển và đa dạng hoá các dịch vụ TGXH, xây dựng hệ thống TGXH linh hoạt, thích ứng với các rủi ro có thể xảy ra, trong đó đặc biệt quan tâm đến đối tượng là phụ nữ.
- Thứ năm, bảo đảm một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân để bảo đảm nhóm yếu thế, trong đó có phụ nữ được thụ hưởng. Cụ thể:
- Phấn đấu đạt và duy trì lâu dài trên 95% dân số tham gia BHYT; đến năm 2030, tuổi thọ trung bình của người dân khoảng 75 tuổi; tỉ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống dưới 42/100.000; tỉ lệ tiêm chủng mở rộng đạt 95% với 14 loại vắc xin; tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 5 tuổi dưới 15%; cơ bản chấm dứt bệnh lao;
- Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo; tỉ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học đạt 99,5%, cấp trung học cơ sở đạt 95%, cấp trung học phổ thông và tương đương đạt 75%; 90% tỉnh, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; tỉ lệ trẻ em DTTS hoàn thành cấp trung học cơ sở đạt 90%;
- Bảo đảm nhà ở có chất lượng cho tất cả người dân; tạo sự ổn định xã hội và phúc lợi nhà ở cho các tầng lớp nhân dân. Phấn đấu đến năm 2030, diện tích nhà ở bình quân đầu người toàn quốc đạt khoảng 30 m2 sàn/người;
- Tăng cường hỗ trợ người dân tiếp cận thông tin, công nghệ số đặc biệt là các vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo và bảo vệ người dân, các nhóm yếu thế an toàn trên môi trường mạng.
- Thứ sáu, tiếp tục tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về bình đẳng giới.
An AnBạn đang xem bài viết 6 giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong các lĩnh vực xã hội tại chuyên mục Giới & Phát triển của Gia Đình Mới, tạp chí chuyên ngành phổ biến kiến thức, kỹ năng sống nhằm xây dựng nếp sống gia đình văn minh, tiến bộ, vì bình đẳng giới. Tạp chí thuộc Viện Nghiên cứu Giới và Phát triển (Liên Hiệp Các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam), hoạt động theo giấy phép 292/GP-BTTTT. Bài viết cộng tác về các lĩnh vực phụ nữ, bình đẳng giới, sức khỏe, gia đình gửi về hòm thư: [email protected].