Phụ nữ bị hở van động mạch chủ vẫn có cơ hội mang thai

Với phương pháp tái tạo van động mạch chủ với vật liệu tự thân, hay còn gọi là kỹ thuật Ozaki, người bệnh van động mạch chủ không còn phải sống “gắn bó với bệnh viện”, đặc biệt đối với chị em ở độ tuổi sinh nở thì vẫn có cơ hội được làm mẹ.

Bệnh nhân tái tạo van tim bằng phương pháp Ozaki nhanh chóng phục hồi sức khỏe

Bệnh nhân tái tạo van tim bằng phương pháp Ozaki nhanh chóng phục hồi sức khỏe

Cụ thể, người bệnh sau khi thay van bằng kỹ thuật trên sẽ không phải tái khám thường xuyên, không phụ thuộc thuốc chống đông và không cần thay van về sau.

Chị V.T.M – 30 tuổi, ngụ Tây Ninh là một trường hợp được tái tạo van tim theo phương pháp Ozaki thành công. Năm 27 tuổi, chị M. bắt đầu xuất hiện những triệu chứng mệt nặng khi gắng sức và tình trạng ngày một nghiêm trọng hơn. Khi đi khám, chị được chẩn đoán hở van động mạch chủ và cần phẫu thuật thay van.

Tuy nhiên, chị vô cùng hoang mang khi biết dù được thay van cơ học hay van sinh học thì cơ hội có thai và sinh con của chị cũng rất thấp, mang nhiều rủi ro. Chị M. cảm thấy như bản thân không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đánh đổi giữa sức khỏe bản thân và việc mang thai nên chị cảm thấy rất tuyệt vọng, lo lắng.

Khi đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Dược (BV ĐHYD) TP HCM, chị may mắn biết được tại đây đã áp dụng phẫu thuật thay van bằng màng ngoài tim, vừa giúp chị cải thiện bệnh tình, vừa đảm bảo cơ hội mang thai. Ca phẫu thuật của chị M. diễn ra vào cuối tháng 11/2017 và thành công tốt đẹp. Đến nay, sức khỏe của chị đã phục hồi và ổn định. Chị cho biết sẽ dự định có thai trong năm 2018.

Trường hợp bác N.T.T – 56 tuổi, ngụ Đồng Nai lại khá đặc biệt và hiếm gặp. Sau một lần nhổ răng, bác T. có những triệu chứng sốt, khó thở kéo dài không dứt. Khi đi khám tại BV ĐHYD TPHCM, bác T. được các bác sĩ chỉ định siêu âm tim và phát hiện bị nhiễm trùng van tim.

Theo PGS TS BS. Nguyễn Hoàng Định, ổ vi trùng trú ngụ lâu ngày trong răng của người bệnh đã bị phát tán khi đi nhổ răng. Các loại vi trùng này nhiễm vào máu và theo máu di chuyển khắp cơ thể. Khi đến tim, những vi trùng này bám lại, gây nên ổ nhiễm trùng ở van tim và đã phát triển thành những mảng sùi ở van tim, gây hở van động mạch chủ, hở van hai lá và van ba lá.

Nếu không được phẫu thuật ngay, những mảng sùi này có thể rơi ra và theo mạch máu lên não gây tắc mạch máu não, khiến người bệnh có nguy cơ đột quỵ. Việc dùng màng ngoài tim tái tạo van động mạch chủ, sửa van hai lá và van ba lá, tránh sử dụng van nhân tạo giúp bác T. giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng tái phát trên van nhân tạo – một biến chứng rất nguy hiểm. Hiện tại, cuộc phẫu thuật của bác T. đã thành công và người bệnh đang trong giai đoạn hồi phục tích cực.

Theo các bác sĩ, các bệnh lý bất thường của van động mạch chủ như hẹp van động mạch chủ, hở van động mạch chủ thường là những bệnh nặng, chữa trị phức tạp. Trước đây, khi cần phải điều trị bằng cách thay van nhân tạo, người bệnh có hai lựa chọn là van cơ học và van sinh học.

Van cơ học có ưu điểm sử dụng lâu dài, không cần thay mới, nhưng người bệnh cần đến bệnh viện tái khám thường xuyên, dùng thuốc kháng đông suốt đời với các nguy cơ tai biến của việc sử dụng thuốc kháng đông.

Trong khi đó, người bệnh sử dụng van sinh học có nguồn gốc từ động vật không cần dùng thuốc kháng đông liên tục, nhưng sau 10 -15 năm, van sẽ hư hỏng và người bệnh cần phải phẫu thuật lại để thay van mới. Các loại van trên dù có tác dụng giúp người bệnh cải thiện tích cực sức khỏe tim mạch, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế khiến chất lượng cuộc sống của người bệnh bị giảm sút vì phải dùng thuốc liên tục và suốt đời, thậm chí phải mổ lại.

Đặc biệt, đối với người bệnh nữ có nhu cầu mang thai dùng van cơ học, việc dùng thuốc kháng đông làm tăng nguy cơ mang quái thai và sảy thai; ở người trẻ, nhất là phụ nữ mang thai, van sinh học sẽ thoái hoá nhanh hơn ở người lớn tuổi. Thay van nhân tạo cũng không phải là phẫu thuật được lựa chọn cho trẻ em vì vòng van nhân tạo làm cho vòng van tự nhiên không lớn lên được cùng với trẻ và trở nên hẹp khi trẻ lớn lên.

Kỹ thuật dùng màng ngoài tim tự thân tái tạo van động mạch chủ là phương pháp mới, mở ra hi vọng giải quyết được những vấn đề còn tồn tại nêu trên của phẫu thuật thay van động mạch chủ.

PGS TS BS. Nguyễn Hoàng Định – Phó Giám đốc Trung tâm tim mạch, Trưởng khoa Phẫu thuật tim mạch BV ĐHYD TP HCM cho biết kỹ thuật tái tạo van tim bằng vật liệu tự thân hiện đã được áp dụng tại hơn 50 quốc gia trên thế giới. Phương pháp này đặc biệt phù hợp với đối tượng người bệnh là phụ nữ có nhu cầu mang thai, trẻ em trong giai đoạn phát triển, người bệnh mong muốn không bị phụ thuộc vào thuốc kháng đông sau phẫu thuật và không muốn phải chịu đựng phẫu thuật nhiều lần.

Đây là một kỹ thuật tiên tiến, đòi hỏi phẫu thuật viên phải được đào tạo bài bản, huấn luyện kỹ lưỡng, có tay nghề cao thì mới thực hiện kỹ thuật tỉ mỉ và chính xác, vì chỉ cần mũi khâu lệch 1mm cũng có thể khiến van bị hở.

Hiện tại, các bác sĩ Khoa Phẫu thuật tim mạch BV ĐHYD TP HCM đã thực hiện tái tạo van động mạch chủ bằng màng ngoài tim thành công cho 10 trường hợp. Không chỉ dừng lại ở việc học hỏi và áp dụng thành công, BV ĐHYD còn là đơn vị tiên phong kết hợp kỹ thuật ít xâm lấn với phương pháp Ozaki. Tại Bệnh viện, phẫu thuật nội soi được áp dụng để lấy màng tim với vết mổ chỉ dài 6cm, giúp người bệnh giảm đau đớn, ít mất máu và không cần phải cưa toàn bộ xương ức như phương pháp Ozaki kinh điển. 

Cha đẻ của phương pháp này là Giáo sư Ozaki người Nhật Bản. Phương pháp Ozaki lấy màng ngoài tim của chính người bệnh để tái tạo thành van tim cho họ. Vì van tim được tái tạo từ một phần cơ thể của người bệnh nên khả năng dung nạp của cơ thể sẽ tốt hơn, giúp thời hạn sử dụng của van được kéo dài hơn. Cấu trúc của van giống như van tự nhiên nên dòng máu qua van ít bị cản trở hơn so với van cơ học hoặc van sinh học. 

Bên cạnh đó, những khuyết điểm của hai loại van trước đây cũng đã được phương pháp Ozaki khắc phục, giúp người bệnh không dùng thuốc kháng đông suốt đời, giảm nguy cơ xuất huyết và nhiễm trùng van nhân tạo, không cần “sống gắn bó bệnh viện”. Ở người bệnh trẻ tuổi, tỉ lệ người bệnh không mổ lại sau 10 năm đối với van sinh học là 85%. Trong khi đó, theo nghiên cứu của Giáo sư Ozaki, tỉ lệ người bệnh không mổ lại sau 10 năm nếu dùng phương pháp Ozaki là 95 - 98%.

Hồng Ngọc

Tin liên quan

từ khóa Tags:

© CƠ QUAN CHỦ QUẢN: VIỆN NGHIÊN CỨU GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN. 

Giấy phép hoạt động báo chí điện tử số 292/GP-BTTTT ngày 23/6/2017 do Bộ Thông tin- Truyền thông cấp. Tên miền: giadinhmoi.vn/

Tổng biên tập: Đặng Thị Viện. Phó Tổng biên tập: Phạm Thanh, Trần Trọng An. Tổng TKTS: Nguyễn Quyết. 

Tòa soạn: Khu Đô thị mới Văn Quán, phường Phúc La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Việt Nam. 

Văn phòng làm việc: Nhà C3 làng quốc tế Thăng Long, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.  

Điện thoại: 0868-186-999, email: [email protected]

Thông tin toà soạn | Liên hệ | RSSBÁO GIÁ QUẢNG CÁO Bất động sản- Tài chính