ThS.BS Nguyễn Văn Tiến, Trung tâm Giáo dục Truyền thông dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết: Vitamin và khoáng chất trong bữa ăn hàng ngày có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao sức đề kháng của cơ thể, giảm nguy cơ mắc bệnh do virus Corona và giảm tỷ lệ tử vong.
Khi bổ sung vitamin, khoáng chất cho cơ thể cần bổ sung đầy đủ, đa dạng các loại vitamin và khoáng chất, mà không phải là chỉ chú trọng bổ sung một loại cụ thể nào.
Cách lựa chọn và chế biến thức ăn khoa học, hiệu quả
Thực phẩm lựa chọn phải tươi sống, không ăn những loại gia cầm và gia súc bị chết do nhiễm bệnh. Không ăn khi thực phẩm còn sống: ăn tái, ăn gỏi, tiết canh, trứng ốp la, trứng lòng đào,..
Cần ăn chín, uống sôi (nước sôi để ngội nếu trời nóng, nước ấm khi trời lạnh). Uống đủ nước theo nhu cầu từ 2,0-2,5 lít nước/người. Có thể dùng nước chanh, nước cam, nước sả, nước gừng… tùy theo cơ thể mỗi người.
Thực hiện 10 lời khuyên vàng trong chế biến thực phẩm, đặc biệt là vệ sinh giao thớt và rửa tay bằng xà phòng trước, trong, sau khi chế biến thực phẩm.
Các thức ăn cần nấu chín kỹ, chế biến dạng lỏng, hay mềm, dễ tiêu hóa và theo sở thích của từng người.
Ngoài ra, cần giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, nhỏ mắt bằng nước muối sinh lý. Thường xuyên vệ sinh đường hô hấp trên thông thoáng, sạch sẽ bằng nước súc miệng, hoặc nước muối sinh lý.
Không nên tới chỗ đông người khi không cần thiết, đặc biệt những điểm du lịch, lễ hội vì dễ tiếp súc nguồn nguồn lây nhiễm.
Khi hắt hơi, sổ mũi, kho cần che miệng hoặc dùng khăn giấy sau đó vứt vào sọt rác, đồng thời rửa và làm khô tay.
Đeo khẩu trang đúng kỹ thuật khi ra ngoài, đến chỗ đông người, tiếp xúc với người khác. Nhà cửa gọn gàng, thoáng mát, sạch sẽ, đặc biệt có ánh nắng chiếu có tác dụng tiêu diệt virus.
10 nguyên tắc vàng về Vệ sinh An toàn Thực phẩm (WHO)
1. Chọn thực phẩm tươi an toàn.
2. Nấu chín kĩ trước khi ăn.
3. Ăn ngay sau khi nấu.
4. Bảo quản cẩn thận các thức ăn đã nấu chín.
5. Nấu lại thức ăn thật kĩ.
6. Tránh ô nhiễm chéo giữa thức ăn chín và sống với bề mặt bẩn.
7. Rửa tay sạch trước khi chế biến thức ăn và sau mỗi lần gián đoạn để làm việc khác.
8. Giữ sạch các bề mặt chế biến thức ăn.
9. Che đậy thực phẩm để tránh côn trùng và các động vật khác.
10. Sử dụng nguồn nước sạch an toàn.
Vitamin có vai trò thế nào đối với sức khỏe?
Vitamin A
Người ta còn gọi vitamin A là “vitamin chống nhiễm khuẩn, virus” có vai trò rõ rệt cả với miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào.
Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn ở trẻ em mà nguyên nhân do thiếu vitamin A rất cao.
Thiếu vitamin A liên quan chặt chẽ đến suy dinh dưỡng (tăng trưởng kém), tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng và tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em.
Những nghiên cứu gần đây đã khẳng định rằng biện pháp bổ sung vitamin A có thể làm giảm 23% tử vong ở trẻ em.
Vai trò của vitamin A với đáp ứng miễn dịch được thể hiện ở vai trò của vitamin A với tính toàn vẹn của các biểu mô.
Thiếu vitamin A các biểu mô quá sản, sừng hoá, các tuyến ngoại tiết giảm bài tiết, khả năng ngăn cản sự xâm nhập của vi khuẩn giảm đi. Da và niêm mạc khô dẫn đến dễ nhiễm khuẩn.
Đồng thời, nếu bôi mỡ có chứa vitanmin A vào các tổn thương ở da có tác dụng thúc đẩy quá trình nhanh liền sẹo. VitaminA có nhiều trong gấc, rau ngót, rau dền cơm, gan gà, gan lợn, gan bò,...
Vitamin E
Vitamin E (tocopherols) làm tăng tính miễn dịch bằng cách bảo vệ tế bào khỏi bị tổ thương, do đó tăng sức đề kháng của cơ thể với các bệnh nhiễm khuẩn mạnh hơn, làm chậm tiến triển bệnh sa sút trí tuệ (Alzheimer), bảo vệ vitamin A và chất béo của màng tế bào khỏi bị o xy hóa, tham gia vào chuyển hóa tế bào.
Vitamin E bảo vệ các chất béo trong não khỏi các gốc tự do, đặc biệt là các chất béo omega-3 DHA và EPA, trong đó tập trung ở tế bào thần kinh.
Khoa học phát triển cho thấy tocopherols là chất bảo vệ tế bào thần kinh quan trọng, vì giúp chặn các tín hiệu viêm tiêu diệt tế bào não.
Những người ăn nhiều loại thực phẩm từ tocopherols cho thấy giảm đáng kể việc suy giảm nhận thức và bệnh Alzheimer.
Bên cạnh việc bảo vệ tế bào thần kinh, vitamin E cũng có liên quan đến phòng chống bệnh ung thư và bảo vệ tim mạch.
Vitamin E có nhiều trong các thực phẩm nguồn gốc tự nhiên: đậu tương, giá đỗ, vừng, lạc, mầm lúa mạch, dầu hướng dương, dầu ô-liu và các loại rau có lá màu xanh đậm.
Vitamin C
Đối với cơ thể vitamin C có vai trò tăng cường miễn dịch, chúng hỗ trợ sản xuất interferon-là loại protein do tế bào cơ thể tạo ra để chống lại tác nhân gây bệnh, là thành phần đạm quan trọng của hệ miễn dịch. Cần thiết cho các tế bào miễn dịch T và bạch cầu. Từ đó làm tăng chức năng của hệ miễn dịch.
Vitamin C giúp hấp thu tốt chất sắt để tạo máu, hỗ trợ chuyển sắt từ huyết thanh vào ferritin để dự trữ ở gan và phóng thích sắt từ ferritin vào huyết thanh khi có nhu cầu.
Giúp hấp thu tốt can xi bằng cách ngăn can xi chuyển thành dạng khó hòa tan. Chuyển acid folic từ dạng không hoạt động thành dạng hoạt động và giữ ổn định ở dạng hoạt động.
Ngoài ra vitamin C còn có tác dụng chống o xy hóa, phòng bệnh tim mạch và tạo collagen là thành phần chính của mô liên kết như sụn, xương, răng, cho sự bền vững của mao mạch và của da.
Thiếu vitamin C, sự nhậy cảm với các bệnh nhiễm khuẩn tăng lên, người bị nhiễm khuẩn thì vitamin C trong máu thường giảm, thiếu vitamin C tính thấm mao mạch tăng, mạch dễ vỡ, da khô ráp.
Nếu ăn đủ vitamin C, các glubulin miễn dịch IgA và IgM tăng, hoạt tính của bạch cầu tăng, kích thích chuyển dạng các lymphô bào và giúp tạo thành các bổ thể. Vitamin C giúp tăng hấp thu các chất khoáng vi lượng (sắt, kẽm…) là những vi chất dinh dưỡng cần thiết cho hoạt động trí não.
Hơn 90% lượng vitamin C có trong khẩu phần ăn được cung cấp từ các loại trái cây và rau củ. Các thực phẩm giàu vitamin C: rau ngót, rau mùi tàu, rau dền, rau đay, rau mồng tời, hành hoa,… trong các loại quả như bưởi, đủ đủ, quýt, cam, chanh,…
Vitamin nhóm B
Trong các vitamin nhóm B, vai trò các folat và pyridoxin đáng chú ý hơn cả. Thiếu folat làm chậm sự tổng hợp của các tế bào tham gia vào các cơ chế miễn dịch.
Tương tự như thiếu sắt, miễn dịch dịch thể ít bị ảnh hưởng hơn miễn dịch qua trung gian tế bào.
Trên thực tế ở trẻ em nhất là phụ nữ có thai, thiếu folat thường đi kèm thiếu sắt là hai yếu tố gây thiếu máu dinh dưỡng.
Thiếu pyridoxin (vitamin B6) làm chậm các chức năng miễm dịch, cả dịch thể và trung gian tế bào.
Các vitamin nhóm B có nhiều trong cám gạo, ngũ cốc, các loại hạt đậu, mè, mầm lúa mì, tim, gan…
Vai trò của một số chất khoáng và miễn dịch
Rất nhiều chất khoáng và vi khoáng tham gia vào miễn dịch, trong đó vai trò của sắt, kẽm được nghiên cứu nhiều hơn cả.
Sắt
Cần thiết cho tổng hợp AND, nghĩa là nó cần thiết cho quá trình phân bào. Ngoài ra sắt còn tham gia vào nhiều enzym can thiệp vào quá trình phân giải bên trong tế bào. Thiếu sắt, nhiễm khuẩn tăng.
Thiếu sắt thường kèm theo thiếu protein - năng lượng, do vậy khi bổ sung sắt cho trẻ em suy dinh dưỡng cần chú ý sau khi đã phục hồi dinh dưỡng từ 5 đến 7 ngày, nếu không sắt tự do sẽ là yếu tố thuận lợi cho phát triển các vi khuẩn.
Sắt gây ảnh hưởng đến miễn dịch qua trung gian tế bào hơn là miễn dịch dịch thể. Do đó tiêm chủng để chống các bệnh nhiễm khuẩn vẫn có tác dụng ở những trẻ em bị thiếu sắt vừa phải.
Ở nơi có bệnh sốt rét, việc bổ sung sắt cần đi kèm với uống thuốc phòng sốt rét. Sắt có nhiều trong mộc nhĩ, nấm hương, rau dền đỏ, đậu tương, tiết bò, bầu dục lợn, lòng đỏ trứng vịt, cua đồng,...
Kẽm
Kẽm có vai trò sinh học rất quan trọng là tác động chọn lọc lên quá trình tổng hợp, phân giải acid nucleic và protein.
Đây là khoáng chất giúp tăng cường miễn dịch, giúp làm vết thương mau lành và giúp duy trì vị giác và khứu giác.
Kẽm tham gia vào hàng trăm enzym chuyển hóa trong cơ thể, vì vậy khi thiếu kẽm trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu hóa do giảm sức đề kháng.
Ngoài ra khi thiếu kẽm trẻ thường có biểu hiện biếng ăn chậm lớn, chậm phát triển chiều cao. Các thức ăn giàu như thịt, cá, tôm, sò, sữa, trứng, ngao, hàu,..