Huyết dụ là loài cây thuộc chi Cordyline, phân bố chủ yếu tại các vùng nhiệt đới châu Á. Đây là cây ưa sáng, ưa ẩm, ra hoa và kết quả hằng năm, thường từ tháng 12 đến tháng 1. Huyết dụ có các đặc điểm sau đây:
Huyết dụ là loại cây nhỏ, cao khoảng 2m, thân thẳng, mảnh, có nhiều đốt sẹo và ít phân nhánh. Lá cây huyết dụ mọc tập trung ở đỉnh thân, xếp thành hai dãy, có hình dạng lưỡi kiếm dài 20 – 50cm, rộng 5 – 10cm, gốc thon, đầu nhọn, mép lá nguyên và hơi lượn sóng. Lá có màu đỏ tía ở cả hai mặt hoặc chỉ một mặt đỏ, mặt còn lại xanh lục xám. Cuống lá dài, có bẹ và rãnh.
Cụm hoa mọc thành chùm xim hoặc phân nhánh ở đỉnh, dài 30 – 40cm, mỗi nhánh mang nhiều hoa màu trắng, bên ngoài có màu tía. Lá đài và cánh hoa huyết dụ chia thành 3 mảnh nhỏ, phần giữa hơi hẹp lại. Hoa có 6 nhị thò ra ngoài và bầu 3 ô. Huyết dụ có quả mọng, hình cầu.
Ở Việt Nam, cây huyết dụ không chỉ được sử dụng rộng rãi làm cây cảnh mà còn được dân gian dùng làm thuốc. Các bộ phận như lá và rễ được thu hái quanh năm, đặc biệt là vào mùa hè, khi trời nắng ráo. Sau khi thu hoạch, người ta thường loại bỏ phần hư hỏng, phơi khô hoặc sấy nhẹ để bảo quản và sử dụng dần.
Huyết dụ có tên khoa học là Cordyline fruticosa (L.) Goepp, thuộc họ Huyết dụ (Asteliaceae)
Lá huyết dụ chứa các hợp chất chính như phenol, acid amin, đường và anthocyan. Nhờ đó, cây được sử dụng rộng rãi trong Y học cổ truyền và Y học hiện đại, góp phần hỗ trợ điều trị nhiều bệnh lý quan trọng.
Thành phần hóa học của cây huyết dụ
Theo Y học cổ truyền, huyết dụ có vị nhạt, tính mát, bình. Quy vào hai kinh Can và Thận.
Theo Đông Y, huyết dụ thường được sử dụng riêng lẻ hay phối hợp với các vị thuốc khác để điều trị các bệnh lý như sau:
Cây huyết dụ có nhiều công dụng trong Y học cổ truyền
Huyết dụ chứa các hợp chất như fruticoside H, fruticoside I và fruticoside J với khả năng kháng khuẩn đáng kể. Trong đó, fruticoside I thể hiện hoạt tính tốt nhất, ức chế sự phát triển của Enterococcus faecalis với nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) = 128 μg/mL. Ngoài ra, chiết xuất etyl axetat từ lá huyết dụ còn cho thấy khả năng kháng khuẩn vượt trội hơn so với các dịch chiết xuất khác như methanol hoặc hexan, đặc biệt kháng Salmonella typhi (đường kính kháng khuẩn = 15,2 mm) và Staphylococcus aureus (đường kính kháng khuẩn = 14,2 mm).
Tuy nhiên, hoạt tính kháng khuẩn tổng thể của huyết dụ vẫn ở mức trung bình đến yếu khi so sánh với các kháng sinh chuẩn như Kanamycin và Tetracyclin. Mặc dù vậy, huyết dụ vẫn được xem là một nguồn hợp chất tự nhiên tiềm năng để phát triển các liệu pháp kháng khuẩn mới, cần được nghiên cứu sâu hơn để tối ưu hóa hiệu quả ứng dụng của chúng.
Huyết dụ có hoạt tính kháng khuẩn tốt, đặc biệt là trên Salmonella typhi
Hoạt tính chống oxy hóa của huyết dụ được xác định bằng phương pháp DPPH đối với dịch chiết thô và các hợp chất phân lập được, đã cho thấy khả năng bắt gốc tự do mạnh mẽ. Cụ thể là, chiết xuất thô methanol có IC50 (nồng độ thu dọn 50% gốc tự do DPPH) là 13,1 μg/mL, trong khi các chất được phân lập có IC50 từ 13,8 - 16,4 μg/mL so với chất đối chứng quercetin có IC50 là 4,5 μg/mL. .
Khả năng chống oxy hóa của hàm lượng phenolic được bao nang và không được bao nang trong natri caseinat của chiết xuất methanol được đánh giá dựa trên AAE (là khả năng dọn gốc tự do của chúng trên mỗi gam acid ascorbic tương đương). Khi được bao nang trong natri caseinat, chiết xuất này duy trì hoạt tính chống oxy hóa cao, với EC50 (nồng độ hoạt chất cho đáp ứng 50% so với đáp ứng tối đa) sau một năm bảo quản là 27,38 mg/g AAE, vượt trội so với dạng không bao nang. Khi kết hợp với hạt nano oxit đồng, chiết xuất methanol cũng tăng cường hiệu quả chống oxy hóa, được cho là nhờ hàm lượng flavonoid phong phú.
Các saponin steroid từ huyết dụ như fruticoside H và fruticoside I, cho thấy tác dụng chống tăng sinh vừa phải đối với dòng tế bào ung thư da, ung thư biểu mô tuyến vú và ung thư đại tràng (IC50 từ 37,83 đến 69,68 μM). Trong khi các hợp chất khác như fruticoside J, fruticoside K và fruticoside M thể hiện hoạt tính chống tăng sinh yếu hoặc không đáng kể đối với các dòng tế bào này.
Một số hợp chất khác thuộc nhóm spirostanol glycoside và glycoside furostanol cho hiệu quả gần tương đương với thuốc chống ung thư 5-FU với IC50 từ 1,39 đến 3,24 μM trên tế bào ung thư tuyến vú chuột. Cơ chế chống ung thư có thể liên quan đến số lượng đường và cấu trúc aglycone của các saponin này.
Saponin chiết xuất từ huyết dụ có khả năng chống ung thư
Một nghiên cứu vào năm 2018 đã cho thấy chiết xuất methanol của thân rễ huyết dụ giúp làm giảm đáng kể nồng độ axit béo, glucose và triglyceride trong máu chuột Wistar béo phì. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc sử dụng chiết xuất này ở liều 30 mg/kg và 70 mg/kg đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc cải thiện rối loạn lipid máu ở chuột thí nghiệm, từ đó mở ra tiềm năng ứng dụng trong điều trị các bệnh liên quan đến rối loạn chuyển hóa lipid.
Huyết dụ có tác dụng làm hạ lipid máu trong huyết tương
Các chiết xuất từ huyết dụ giúp bảo vệ gan và thận khỏi các tổn thương do thuốc điều trị ung thư có độc tính cao như cisplatin và doxorubicin. Ngoài ra, chúng còn làm giảm đáng kể các chỉ số AST, ALT, urê và creatinine, nhờ đó tăng cường chức năng gan, thận.
Cây huyết dụ có tác dụng tăng cường chức năng gan, thận
Nghiên cứu được tiến hành trên những con chuột bị tiêu chảy do sử dụng dầu thầu dầu hay magie sulfat đã cho thấy kết quả tích cực của cây huyết dụ trên những đối tượng này. Cụ thể là sau khi sử dụng chiết xuất methanol từ lá huyết dụ ở liều 800 mg/kg thì tần suất số lần đi ngoài ở những đối tượng này giảm đi đáng kể.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loài thực vật chứa thành phần hóa học như tannin, flavonoid, alkaloid, saponin, steroid và terpenoid có khả năng tác động đến hệ tiêu hóa, đặc biệt là trong việc kiểm soát tiêu chảy. Trong đó tannin và flavonoid hỗ trợ quá trình tái hấp thu nước và chất điện giải tại đại tràng, còn alkaloid và saponin góp phần làm giảm nhu động ruột, nhờ đó hạn chế tình trạng tiêu chảy.
Chiết xuất methanol từ lá huyết dụ giúp giảm tần suất tiêu chảy
Chiết xuất methanol của lá cây huyết dụ đã được nghiên cứu về khả năng chống ký sinh trùng. Kết quả cho thấy chúng có khả năng ức chế yếu đối với sự phát triển của Plasmodium falciparum, Trypanosoma brucei và Trypanosoma cruzi với IC50 lần lượt là 12, 23 và 32 µM so với 0,018 µM của thuốc Chloroquine. Trong khi đó, chiết xuất nước cất từ huyết dụ cũng thể hiện hoạt tính chống lại bệnh Trypanosoma bằng cách làm chậm chu kỳ phân bào của Trypanosoma evansi với IC50 48,1 µg/mL.
Cây huyết dụ có khả năng ức chế sự phát triển của Plasmodium falciparum và Trypanosoma spp.