Tác giả: Lê Nhật Hạnh, Hồ Xuân Hướng, Trần Trung Đức
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
[Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Số 18(2)2023]
Nghiên cứu nhằm khám phá ảnh hưởng của truyền thông nội bộ tổ chức đến hạnh phúc tinh thần của người lao động thông qua việc đáp ứng/thoả mãn ba nhu cầu tâm lý cơ bản bao gồm: nhu cầu tự chủ, nhu cầu năng lực và nhu cầu kết nối. Dữ liệu được thu thập từ 294 người lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ. Mô hình phương trình cấu trúc bình phương tối thiểu từng phần (PLS-SEM) được dùng để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, kết quả cho thấy truyền thông nội bộ tổ chức có ảnh hưởng mạnh nhất đến nhu cầu kết nối, nhu cầu tự chủ, và cuối cùng là nhu cầu năng lực. Trong khi đó, để nâng cao hạnh phúc tinh thần của người lao động thì việc đáp ứng nhu cầu năng lực cần được ưu tiên trước, sau đó đến nhu cầu tự chủ và cuối cùng là nhu cầu kết nối.
hạnh phúc tinh thần; nhu cầu tâm lý cơ bản; truyền thông nội bộ
Truyền thông nói chung, đặc biệt là truyền thông nội bộ là chìa khóa mở cánh cửa thành công trong mọi ngóc ngách của quản lý và quản trị tổ chức (Ganske & Carbon, 2023). Trong một tổ chức, nơi mà nguồn lực con người có vai trò quyết định thì truyền thông nội bộ không chỉ là cây cầu nối tình cảm giữa tổ chức và người lao động, mà còn là nguồn năng lượng động viên, khích lệ họ tiến lên. Từ đó, mỗi cá nhân trở thành một mảnh ghép quan trọng, cùng nhau xây dựng nên bức tranh toàn diện của một tổ chức vững mạnh và hiệu quả. Truyền thông nội bộ có thể được định nghĩa là quá trình làm cho người lao động được nhận đầy đủ thông tin, kiến thức chức năng, và giá trị trong tổ chức (Vander Elst, Baillien, De Cuyper, & De Witte, 2010). Truyền thông nội bộ có thể bao gồm các hoạt động như truyền tải thông tin qua Email, bản tin nội bộ, hội nghị trực tuyến, cuộc họp trực tiếp và các phương tiện khác nhằm để giúp người lao động trong tổ chức hiểu rõ về mục tiêu, chiến lược, quy định, chính sách và quy trình của tổ chức; giúp trao đổi thông tin, kết nối, tăng sự hiểu biết giữa các bộ phận với nhau và với người lao động, cũng như cải thiện sự tương tác giữa các người lao động, qua đó tạo ra một môi trường làm việc tích cực, truyền cảm hứng và năng động.
Các nghiên cứu trước về truyền thông nội bộ cho thấy tác động tích cực của nó đến nhiều kết quả cần thiết cho sự thành công của tổ chức, những kết quả này bao gồm năng suất, cam kết tổ chức, niềm tin, động lực làm việc, hành vi chia sẻ kiến thức, và sự hài lòng trong công việc (Ganske & Carbon, 2023; Lee, Tao, Li, & Sun, 2021). Còn các thất bại trong truyền thông nội bộ có thể dẫn đến những kết quả không mong muốn như sự căng thẳng, sự không hài lòng trong công việc, thiếu niềm tin, giảm cam kết tổ chức, ý định từ bỏ công việc, và sự vắng mặt của người lao động (Ćorić, Vokić, & Verčič, 2020). Các yếu tố đã được nghiên cứu đó thuộc về tổ chức hoặc về công việc của người lao động, tuy nhiên đối với bản thân người lao động, bên cạnh công việc thì chất lượng cuộc sống, đặc biệt là sự hạnh phúc tinh thần (mental well-being) là rất quan trọng bởi vì nó quyết định nhiều khía cạnh trong cuộc sống của họ, bao gồm sự nghiệp, mối quan hệ, các hoạt động tâm trí và thể chất, cũng như các mục tiêu và mong muốn của họ. Có thể thấy, còn khá ít nghiên cứu về ảnh hưởng của truyền thông nội bộ đến hạnh phúc (well-being), mà cụ thể hơn là hạnh phúc tinh thần của người lao động, đặc biệt trong bối cảnh áp lực công việc ngày càng gia tăng như hiện nay.
Theo nghiên cứu của Vander Elst và cộng sự (2010), thông tin và tin tức mà người lao động nhận được sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc và suy nghĩ, có thể tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào việc các thông tin đó có giúp thúc đẩy hoặc hạn chế việc thỏa mãn các nhu cầu tâm lý quan trọng của họ. Dựa trên Lý thuyết tự quyết (Deci & Ryan, 2000), các nhu cầu tâm lý quan trọng, cơ bản của con người bao gồm: nhu cầu tự chủ (need for autonomy), nhu cầu năng lực (need for competence) và nhu cầu kết nối (need for relatedness), các nhu cầu tâm lý cơ bản này chính là tiền đề quan trọng quyết định hạnh phúc về mặt tinh thần. Ngoài ra, theo Lee và cộng sự (2021), thì lý thuyết này cũng đề cập đến vai trò của điều kiện môi trường, mà cụ thể là truyền thông nội bộ của tổ chức, đến việc thúc đẩy hay kìm hãm việc đáp ứng các nhu cầu tâm lý cơ bản này của người lao động. Có thể thấy, về mặt lý luận, thông tin và tin tức mà người lao động người nhận được từ các kênh truyền thông nội bộ sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc và suy nghĩ, có thể tiêu cực hoặc tích cực tùy thuộc vào việc các thông tin đó có giúp người lao động cảm thấy được tự chủ nhiều hơn, năng lực của họ được đánh giá cao hơn và họ được kết nối nhiều hơn, qua đó họ cảm thấy hạnh phúc hơn trong cuộc sống. Tuy nhiên, còn ít nghiên cứu kiểm chứng các mối quan hệ lý thuyết đó. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích kiểm định mô hình ảnh hưởng của truyền thông nội bộ đến hạnh phúc tinh thần của người lao động thông qua việc đáp ứng các nhu cầu tâm lý cơ bản nêu trên. Qua đó cung cấp bằng chứng thực nghiệm, giúp đóng góp cả về mặt lý luận thực tiễn cho lĩnh vực nghiên cứu về truyền thông nội bộ của tổ chức.
Nội dung chính của lý thuyết tự quyết (Deci & Ryan, 2000) cho rằng có ba nhu cầu tâm lý cơ bản thiết yếu đến hoạt động của con người và tác động đến hạnh phúc tinh thần của con người: nhu cầu tự chủ, nhu cầu năng lực và nhu cầu kết nối. Nhu cầu tự chủ phản ánh rằng con người tìm kiếm cảm giác hành động độc lập theo cách mà họ mong muốn. Nếu cá nhân cảm thấy không đảm bảo nhu cầu tự chủ, họ sẽ cảm thấy mình bị điều khiển bởi những lực lượng không phù hợp với con người của họ, cho dù đó là những lực lượng bên trong hay bên ngoài con người họ. Nhu cầu năng lực cho rằng mọi người sẽ đánh giá cao cảm giác hiệu quả trong việc mà họ làm thông qua việc họ mở rộng và sử dụng các kỹ năng. Khi một cá nhân cảm thấy bản thân có năng lực, họ sẽ cảm thấy làm chủ được môi trường xung quanh họ và sẽ tự tin hơn vào năng lực của bản thân họ. Ngoài ra, năng lực của cá nhân cũng sẽ được tăng lên khi một người được tạo điều kiện, cơ hội thể hiện năng lực của mình trong các thử thách phù hợp với kỹ năng của họ. Nhu cầu kết nối là nhu cầu cảm thấy được kết nối với những người quan trọng khác cũng như trải qua cảm giác ấm áp và chăm sóc (Vansteenkiste, Ryan, & Soenens, 2020). Để đáp ứng được nhu cầu kết nối, họ phải cảm thấy bản thân mình là quan trọng trong các mối quan hệ quan trọng của họ.
Như vậy, lý thuyết tự quyết đề xuất rằng cả ba nhu cầu tâm lý cơ bản: (a) nhu cầu tự chủ, (b) nhu cầu năng lực, (c) nhu cầu kết nối phải được đáp ứng để tâm lý con người hoạt động tối ưu. Việc đáp ứng tốt nhu cầu này nhưng không đáp ứng tốt nhu cầu còn lại cũng ảnh hưởng đến hạnh phúc tinh thần của họ. Ngoài ra, ba nhu cầu tâm lý cơ bản ảnh hưởng đến hạnh phúc tinh thần ngay cả khi cá nhân đó không biết về nó hoặc thậm chí nền văn hóa của cá nhân đó không coi trọng các nhu cầu tâm lý cơ bản này. Như vậy, nếu nhu cầu tâm lý cơ bản không được đáp ứng thỏa đáng thì sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc tinh thần của con người. Ngược lại, nếu cá nhân được đáp ứng ba nhu cầu tâm lý cơ bản thì cá nhân đó được coi là có sự tự chủ và sẽ khỏe mạnh về mặt tinh thần.
Ngoài ra, lý thuyết tự quyết cũng đề cập đến vai trò quan trọng của yếu tố môi trường hỗ trợ, mà truyền thông nội bộ của tổ chức là một ví dụ điển hình (Lee & ctg., 2021) giúp thỏa mãn các nhu cầu tâm lý cơ bản (Deci & Ryan, 2000). Vì vậy, có thể nói lý thuyết tự quyết là nền tảng thích hợp cho việc phát triển các giả thuyết nghiên cứu sẽ được trình bày trong các phần sau.
Truyền thông nội bộ, không chỉ chia sẻ thông tin mà còn là cung cấp kiến thức và chia sẻ giá trị tổ chức đến từng người lao động (Vander Elst & ctg., 2010). Quá trình này bao gồm việc sử dụng nhiều phương tiện và kênh truyền thông như Email, bản tin nội bộ, hội nghị trực tuyến và cuộc họp trực tiếp, không chỉ nhằm mục đích làm rõ mục tiêu và chiến lược tổ chức, mà còn như một cầu nối, tạo ra sự liên kết và sự hiểu biết giữa các đơn vị và người lao động. Đồng thời, nó cũng tạo nên một không gian làm việc tích cực, tràn ngập cảm hứng và động lực thông qua việc tăng cường tương tác giữa người lao động. Quá trình truyền thông này, tại cấp độ nội bộ, đã chứng minh có những vai trò quan trọng như: xây dựng bản sắc tổ chức, kích thích động lực và cam kết của người lao động, giảm thiểu sự kháng cự trong quá trình thay đổi, giảm thiểu hiểu lầm và xung đột, cung cấp công cụ và thông tin cần thiết cho người lao động, và nâng cao chất lượng dịch vụ bằng cách tăng cường hiểu biết về nhu cầu khách hàng trong toàn tổ chức (Asif & Sargeant, 2000).
Truyền thông nội bộ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường làm việc tích cực và động viên người lao động, đặc biệt là qua việc thoả mãn ba nhu cầu tâm lý cơ bản: tự chủ, năng lực và kết nối. Cụ thể là, truyền thông nội bộ cung cấp thông tin cần thiết để người lao động có thể đưa ra quyết định thông tin và tự chủ trong công việc của mình. Môi trường truyền thông cởi mở và hai chiều tạo điều kiện cho người lao động tham gia vào quá trình đưa ra quyết định, tăng cường cảm giác tự chủ và quản lý công việc của mình. Thông qua truyền thông nội bộ, người
lao động không chỉ nhận được sự quan tâm và kết nối từ tổ chức và đồng nghiệp, mà còn có cơ hội để bày tỏ và đóng góp ý kiến của mình vào các kế hoạch và chiến lược của tổ chức (Luu, 2022; Spialek, Houston, & Worley, 2019). Các quá trình giao tiếp này không chỉ giúp người lao động đối mặt và xử lý những suy nghĩ tiêu cực, mà còn giúp họ nhận thức được những lợi ích tiềm ẩn từ sự kiện và áp dụng một tư duy tích cực hướng tới tương lai (Spialek & ctg., 2019; Walsh, 2007). Qua các hoạt động giao tiếp nội bộ, việc tạo ra không gian cho đối thoại và hỏi đáp cung cấp cơ hội cho người lao động để diễn đạt mối quan tâm của họ đối với tổ chức, làm cho họ cảm thấy được đánh giá cao, và do đó, nâng cao quyền tự chủ và năng lực của họ (Malik & Garg, 2017; Purcell, Kinnie, Swart, Rayton, & Hutchinson, 2008). Truyền thông nội bộ cũng giúp người lao động cảm thấy mình là một phần của tổ chức, tạo ra một liên kết mạnh mẽ và cảm giác thuộc về. Nghiên cứu gần đây của Lee và cộng sự (2021) đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy ảnh hưởng tích cực của truyền thông nội bộ minh bạch đến sự thoã mãn các nhu cầu tâm lý nội tại của người lao động trong bối cảnh khủng hoảng dịch Covid-19. Trên cơ sở đó, nghiên cứu của chúng tôi đề xuất rằng:
H1a: Truyền thông nội bộ có tác động tích cực đến việc thoã mãn nhu cầu tự chủ của người lao động
H1b: Truyền thông nội bộ có tác động tích cực đến việc thoã mãn nhu cầu năng lực của người lao động
H1c: Truyền thông nội bộ có tác động tích cực đến việc thoã mãn nhu cầu kết nối của người lao động
Nhiều nghiên cứu cho thấy việc được đáp ứng hay nói cách khác là sự hài lòng về ba nhu cầu tâm lý cơ bản sẽ mang lại các kết quả tích cực (Baard, Deci, & Ryan, 2004; Sheldon & Bettencourt, 2002), cụ thể như mang lại cảm giác hạnh phúc và cảm xúc tích cực hàng ngày (Reis, Sheldon, Gable, Roscoe, & Ryan, 2000) và giảm căng thẳng, mệt mỏi (Quested & ctg., 2011). Nghiên cứu của Church và cộng sự (2013) cho thấy rằng mức độ hạnh phúc nói chung và hạnh phúc về mặt tinh thần nói riêng là cao tại nơi có nền văn hóa giao thoa với nhau, kết nối với nhau. Nghiên cứu của Weinstein và Ryan (2011, tr. 12) đề xuất rằng sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý cơ bản chính là “giảm cả những đánh giá ban đầu về căng thẳng và khuyến khích sự thích ứng đối phó sau khi các sự kiện căng thẳng xảy ra”. Aldrup, Klusmann, và Lüdtke (2017) cho rằng khi nhu cầu năng lực và nhu cầu kết nối không được đáp ứng sẽ tác động tới tình trạng kiệt sức, căng thẳng hàng ngày và hạnh phúc tinh thần của con người. Đồng ý với luận điểm trên, Benita, Benish- Weisman, Matos, và Torres (2020) cho rằng sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý cơ bản được nhận thức là yếu tố quan trọng tác động đến hạnh phúc tinh thần của con người. Chính vì vậy, chúng tôi đề xuất rằng việc tăng cường sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý cơ bản của người lao động sẽ tăng cường hạnh phúc tinh thần của họ. Do đó, chúng tôi đề xuất ba giả thuyết sau:
H2a: Nhu cầu tự chủ trong công việc có ảnh hưởng tích cực đến hạnh phúc tinh thần của người lao động
H2b: Nhu cầu năng lực trong công việc có ảnh hưởng tích cực đến hạnh phúc tinh thần của người lao động
H2c: Nhu cầu kết nối trong công việc có ảnh hưởng tích cực đến hạnh phúc tinh thần của người lao động
Mô hình nghiên cứu đề xuất và các giả thuyết nghiên cứu được mô tả như trong Hình 1:
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Mô hình nghiên cứu gồm có năm biến ẩn là: (1) Truyền thông nội bộ, (2) Nhu cầu tự chủ, (3) Nhu cầu năng lực, (4) Nhu cầu kết nối, (5) Hạnh phúc tinh thần. Các câu hỏi được đo lường bằng thang đo khoảng 7 điểm, với 1 là hoàn toàn không đồng ý đến 7 là hoàn toàn đồng ý. Truyền thông nội bộ được đo lường bởi 06 biến quan sát, được hiệu chỉnh từ nghiên cứu của Edwards, Leite, Randsley de Moura, và Marques (2022). Nhu cầu tâm lý cơ bản bao gồm nhu cầu tự chủ, nhu cầu năng lực và nhu cầu kết nối được đo lường bởi 12 biến quan sát, được kế thừa từ Chen và cộng sự (2015). Thang đo lường hạnh phúc tinh thần được dựa trên nghiên cứu của Fat, Scholes, Boniface, Mindell, và Stewart-Brown (2017). Các thang đo lường được mô tả chi tiết ở Bảng 2. Ngoài ra các yếu tố về đặc điểm cá nhân như: Giới tính, độ tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập, thâm niên công tác và chức vụ của người trả lời cũng được thu thập.
Trong các tổ chức cung cấp dịch vụ truyền thông nội bộ rất được coi trọng, được xem là chìa khóa để đảm bảo người lao động có thể có tinh thần tốt nhất để phục vụ khách hàng do đặc điểm đặc thù của lĩnh vực dịch vụ là vô hình, không thể chạm vào, khó nhìn thấy hoặc đo lường một cách cụ thể như sản phẩm vật lý. Vì vậy, nhóm nghiên cứu chủ đích thu thập số liệu từ người lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, nhà hàng, và khách sạn. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thập khảo sát thông qua hình thức gửi đường link khảo sát qua mạng lưới học viên và cựu học viên chương trình đào tạo du lịch, nhà hàng, khách sạn. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng câu hỏi gạn lọc để đảm bảo đúng đối tượng cần khảo sát “Anh/chị hiện đang làm việc trong lĩnh vực dịch vụ (ví dụ: du lịch, nhà hàng, khách sạn) có phải không?” và “Thời gian làm việc trong lĩnh vực dịch vụ của anh/chị là bao lâu?”. Dữ liệu thu thập được sàng lọc và loại bỏ những bản khảo sát không hợp lệ hoặc không đạt yêu cầu. Tổng số phiếu đạt yêu cầu là 294 phiếu được dùng để phân tích và xử lý số liệu. Đặc điểm chi tiết của mẫu nghiên cứu được mô tả trong Bảng 1.
Kết quả thống kê mẫu nghiên cứu
Đặc điểm nhân khẩu học | Tần suất | Tỷ lệ (%) | |
Giới tính | Nam | 112 | 38% |
Nữ | 182 | 62% | |
Độ tuổi | 18 - 25 | 154 | 52% |
26 - 30 | 90 | 31% | |
31 - 35 | 26 | 9% | |
36 - 40 | 11 | 4% | |
41 - 45 | 9 | 3% | |
51 - 55 | 3 | 1% | |
56 - 60 | 1 | 0% | |
Tình trạng hôn nhân | Độc thân | 136 | 46% |
Đã kết hôn | 156 | 53% | |
Khác | 2 | 1% | |
Học vấn | Trung học phổ thông | 13 | 4% |
Cao đẳng/Đại học | 256 | 87% | |
Thạc sĩ trở lên | 24 | 8% | |
Khác | 1 | 0% | |
Đơn vị nghề nghiệp | Công ty dịch vụ du lịch và lữ hành | 51 | 17% |
Khách sạn | 142 | 48% | |
Nhà hàng | 40 | 14% | |
Khu resort | 22 | 7% | |
Điểm đến du lịch | 10 | 3% | |
Hướng dẫn viên tự do | 9 | 3% | |
Khác | 20 | 7% | |
Quy mô đơn vị | ≤ 10 người | 21 | 7% |
11 - 50 người | 70 | 24% | |
51 - 100 người | 108 | 37% | |
> 100 người | 95 | 32% | |
Vị trí công việc | Giám đốc/Phó Giám đốc | 15 | 5% |
Trưởng phòng/Trưởng bộ phận | 29 | 10% | |
Quản lý nhà hàng/Khách sạn | 22 | 7% | |
Hướng dẫn viên du lịch | 14 | 5% | |
Nhân viên kinh doanh | 21 | 7% | |
Nhân viên nghiệp vụ | 171 | 58% | |
Khác | 22 | 7% |
Thâm niên công tác | Dưới 05 năm | 204 | 69% |
Từ 05 - 10 năm | 63 | 21% | |
Từ 10 - 15 năm | 17 | 6% | |
Trên 15 năm | 10 | 3% | |
Thu nhập | Dưới 05 triệu | 90 | 31% |
Từ 05 - dưới 9 triệu | 118 | 40% | |
Từ 09 - dưới 15 triệu | 60 | 20% | |
Trên 15 triệu | 26 | 9% |
Nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng bình phương bé nhất từng phần (PLS- SEM) để đánh giá mô hình đo lường và kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính với phần mềm SmartPLS 4.0 (Hair, Howard, & Nitzl, 2020).
Các bước kiểm định độ tin cậy và độ giá trị của thang đo trong nghiên cứu này được đi theo gợi ý của Hair và cộng sự (2020) gồm kiểm định độ tin cậy, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt.
Kết quả kiểm định thang đo cho thấy các thang đo đều đạt độ tin cậy vì các hệ số Cronbach’s Alpha đều lớn hơn 0.7; độ tin cậy tổng hợp (CR) của thang đo đều lớn hơn 0.7, và giá trị phương sai trích trung bình (AVE) lớn hơn 0.5.
Hơn nữa, ngoại trừ một biến quan sát có hệ số tải nhân tố < 0.5 bị loại bỏ, còn lại các biến quan sát khác đều có hệ số tải nhân tố lớn hơn 0.5. Đồng thời, phương sai trích trung bình (AVE) đều lớn hơn 0.5. Do đó, các thang đo lường đạt giá trị hội tụ (xem Bảng 2).
Độ tin cậy và giá trị hội tụ của thang đo lường
Biến ẩn và biến đo lường | Hệ số tải nhân tố | Cronbach’s Alpha | CR | AVE |
Truyền thông nội bộ trong công ty tôi, … | 0.86 | 0.89 | 0.58 | |
chi tiết và kịp thời | 0.83 | |||
linh hoạt đáp ứng nhu cầu của người lao động | 0.82 | |||
khuyến thích chia sẻ thông tin | 0.82 | |||
giúp giải quyết những lo lắng của người lao động | 0.69 | |||
giúp thực hiện các kế hoạch, công việc được giao | 0.68 | |||
giúp gắn kết người lao động vào kế hoạch, công việc của công ty | 0.73 | |||
Nhu cầu tự chủ | 0.70 | 0.83 | 0.63 | |
Công việc của tôi cho phép tôi đưa ra quyết định | 0.71 | |||
Tôi có thể sử dụng khả năng đánh giá của mình khi giải quyết các vấn đề liên quan đến công việc* | Loại bỏ |
Tôi có thể chịu trách nhiệm cho công việc của mình | 0.83 | |||
Với công việc của mình, tôi thoải mái thực hiện nhiệm vụ theo cách của mình | 0.84 | |||
Nhu cầu năng lực | 0.78 | 0.86 | 0.60 | |
Tôi có khả năng làm tốt công việc của mình | 0.83 | |||
Tôi cảm thấy có năng lực trong công việc | 0.80 | |||
Tôi có thể giải quyết các vấn đề trong công việc | 0.72 | |||
Tôi thành công trong công việc của mình | 0.76 | |||
Nhu cầu kết nối | 0.71 | 0.84 | 0.63 | |
Tôi cảm thấy mọi người hiểu tôi khi tôi làm việc với mọi người trong môi trường làm việc của mình | 0.84 | |||
Tôi cảm thấy được lắng nghe khi tôi làm việc với mọi người trong môi trường làm việc của mình | 0.79 | |||
Tôi cảm thấy có thể tin tưởng họ khi tôi làm việc với mọi người trong môi trường làm việc của mình* | Loại bỏ | |||
Tôi cảm thấy tôi là một người bạn của họ khi tôi làm việc với mọi người trong môi trường làm việc của mình | 0.75 | |||
Hạnh phúc tinh thần | 0.78 | 0.85 | 0.53 | |
Tôi cảm thấy lạc quan về tương lai | 0.76 | |||
Tôi cảm thấy hữu ích | 0.78 | |||
Tôi cảm thấy thư giãn* | Loại bỏ | |||
Tôi giải quyết tốt mọi vấn đề | 0.78 | |||
Tôi suy nghĩ rõ ràng | 0.69 | |||
Tôi cảm thấy gần gũi với những người khác | 0.63 | |||
Tôi có thể tự quyết định mọi thứ* | Loại bỏ |
(*) Giá trị loại bỏ vì hệ số tải nhân tố < 0.5
Ma trận Fornell & Larcker và HTMT
Biến ẩn | (1) | (2) | (3) | (4) | (5) |
Truyền thông nội bộ (1) | 0.76 | 0.41 | 0.35 | 0.55 | 0.44 |
Nhu cầu tự chủ (2) | 0.36 | 0.79 | 0.83 | 0.85 | 0.87 |
Nhu cầu năng lực (3) | 0.32 | 0.62 | 0.78 | 0.73 | 0.86 |
Nhu cầu kết nối (4) | 0.46 | 0.60 | 0.55 | 0.79 | 0.74 |
Hạnh phúc tinh thần (5) | 0.40 | 0.66 | 0.69 | 0.56 | 0.74 |
Ghi chú: Căn bậc hai của AVE nằm trên đường chéo chính; phía dưới đường chéo là hệ số tương quan giữa các biến ẩn (ma trận Fornell & Larcker); phía trên đường chéo là ma trận HTMT
Kết quả phân tích cho thấy giá trị căn bậc hai nhỏ nhất của AVE (0.74) lớn hơn giá trị lớn nhất của tương quan giữa các cặp biến ẩn (0.69) và các giá trị ma trận HTMT đều nhỏ hơn 0.9 (xem Bảng 3). Ngoài ra, kết quả phân tích cũng cho thấy tất cả hệ số tải chéo đều nhỏ hơn hệ số tải nhân tố của biến ẩn đó. Do đó, các biến ẩn đều đạt được giá trị phân biệt.
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng mô hình PLS-SEM cũng như các bước kiểm định giả thuyết trong nghiên cứu này dựa vào các hướng dẫn của Hair và cộng sự (2020). Theo đó, chất lượng của mô hình được đánh giá thông qua hai giá trị là